.

Chuyến điền dã về ca trù làng Đông Dương

.
07:35, Thứ Năm, 23/08/2018 (GMT+7)
(QBĐT) - Chúng tôi đến làng Đông Dương, xã Quảng Phương (huyện Quảng Trạch) trong chuyến điền dã sưu tầm ca trù ở Quảng Bình.
 
Đó là những ngày nắng nóng như thiêu như đốt giữa mùa hè tháng 8-2018. Đông Dương là một làng thuần nông. Đón chúng tôi từ đầu làng là những bàu sen đang mùa nở hoa, những cánh đồng lúa xanh mướt trải dài đến những dãy núi mờ xa tận chân trời. Chiếc ô-tô lần dò trên con đường làng gập ghềnh như phi ngựa đưa chúng tôi đến điểm dừng chân đầu tiên là nhà của Nghệ nhân dân gian Hồ Xuân Thể, linh hồn của Câu lạc bộ ca trù làng Đông Dương.
 
Do đã liên hệ từ trước, ông Lê Tấn Đạt, chủ nhiệm câu lạc bộ cùng một số thành viên chủ chốt đã tập trung đến đây để đón chúng tôi. Đó là nghệ nhân Hồ Xuân Thể - đàn đáy, nghệ nhân Phạm Văn Đoàn - trống chầu, các nghệ nhân Dương Thị Điểm, Ngô Thị Tâm, Phạm Thị Dậu - đào hát. Dưới bóng cây râm mát trong vườn nhà, cùng thưởng thức cốc nước lá đậm đà hương vị làng quê, chúng tôi nhanh chóng làm quen với nhau và bàn kế hoạch công việc.
 
Theo lời kép đàn Hồ Xuân Thể, ca trù ở làng Đông Dương xuất hiện từ thế kỷ XVIII. Kép Thể còn cho biết thêm rằng tên gọi ca trù chỉ mới xuất hiện gần đây ở Quảng Bình, sau khi ca trù Việt Nam được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 2009, còn trước đó, nó được người dân địa phương gọi là hát nhà trò. Thông tin này cho chúng ta thấy được sự tác động của yếu tố bên ngoài đến sự tồn tại của một di sản phi vật thể - cụ thể ở đây là làm thay đổi tên gọi của di sản.
 
Hát nhà trò của Quảng Bình đã khoác lên mình tên gọi chung của nghệ thuật ca trù và tên gọi này đã trở nên phổ biến hơn tên gọi vốn có của nó. Ngay cả tên của câu lạc bộ tại địa phương này cũng dùng tên gọi mới: Câu lạc bộ ca trù Đông Dương. Không chừng trong 100 năm nữa, tên gọi hát nhà trò sẽ không còn được dùng đến trong dân gian Quảng Bình, thay vào đó là tên gọi mới dùng chung trên toàn quốc và cả thế giới. Vì sự phổ biến của tên gọi mới, tôi xin được dùng danh xưng ca trù để chỉ hát nhà trò ở Quảng Bình trong bài viết này.
Một tiết mục biểu diễn của các nghệ nhân CLB ca trù Đông Dương
Một tiết mục biểu diễn của các nghệ nhân CLB ca trù Đông Dương
Tôi rất quan tâm đến tính chân xác (authenticity) của di sản nên hỏi các nghệ nhân khá kỹ về sự trao truyền của nghệ thuật ca trù  làng Đông Dương. Nghệ nhân Hồ Xuân Thể cho biết, gia đình ông đã có truyền thống 5 đời gắn bó với ca trù. Đó là sự nối tiếp của 5 thế hệ và kép Thể là đời thứ tư.
 
Để chứng mình cho truyền thống gia đình của mình, ông Thể cho chúng tôi xem cây đàn đáy có tuổi thọ hơn 100 năm do ông cố truyền lại và đến nay vẫn còn được sử dụng. Ông Thể còn cho biết thêm trong thời gian chiến tranh, có những năm lễ hội ở đình làng không được tổ chức, song khi ẩn nấp trong hầm trú bom, bà con vẫn hát ca trù. Nghệ nhân Phạm Thị Thứu (mất năm 2007) - đào hát cuối cùng của thế kỷ XX ở làng Đông Dương vẫn còn kịp trao truyền các bài hát ca trù cho thế hệ nghệ nhân tiếp theo trước khi bà nhắm mắt lìa đời ở lứa tuổi trên 80.
 
Trước đó, vào năm 1999, Câu lạc bộ  ca trù làng Đông Dương đã được thành lập và kép đàn Hồ Xuân Thể là người tâm huyết muốn bảo tồn nghệ thuật ca trù. Ông đã vận động, thuyết phục những người có khả năng tham gia câu lạc bộ để đào Thứu và chính ông có điều kiện truyền dạy cho thế hệ sau. Nhờ thế mà ca trù ở làng Đông Dương được lưu truyền cho đến ngày nay. Những thông tin trên cho thấy truyền thống ca trù làng Đông Dương không bị đứt đoạn. Quả thật, khi nghe phần trình diễn của các nghệ nhân, tôi nhận diện được tính bản địa của di sản mà không bị pha tạp bởi yếu tố mới từ bên ngoài truyền thống địa phương.
 
Việc làm phim tư liệu của chúng tôi diễn ra ở đình làng. Cũng như các đình làng người Việt khác, đây là nơi diễn ra các cuộc lễ “xuân thu nhị kỳ” để thờ cúng Thành hoàng, các bậc tiền nhân có công với làng, thể hiện ước nguyện của dân làng về một cuộc sống bình yên, no ấm. Hàng năm, trong cuộc lễ tổ chức vào ngày rằm tháng giêng, các làn điệu ca trù được  các nghệ nhân trong làng sử dụng để dâng cúng thần linh. Vì vậy, đình làng Đông Dương chính là nơi thích hợp nhất để làm bối cảnh cho việc làm phim tư liệu về ca trù Đông Dương.
 
Ngôi đình làng Đông Dương tọa lạc ở một ví trí cao ráo, khang trang, ngoảnh mặt ra con sông chảy xuyên qua làng. Theo “Lý lịch di tích lịch sử đình Đồng Dương” của Sở Văn hóa, Thể thao Quảng Bình, ngôi đình được xây dựng vào năm 1877, bị chuyển đổi mục đích sử dụng trong thời chiến tranh và hậu chiến, nay lại trở về với chức năng nguyên thủy là thờ cúng Thành hoàng. Trên bức hoành phi được treo trang trọng ngay giữa đình có 4 chữ Hán  “Vạn cổ anh linh” ca ngợi các vị tiền nhân được thờ trong đình.
 
Những ngày điền dã “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với các nghệ nhân là một cơ hội quý để chúng tôi được thâm nhập vào cuộc sống thực tế của họ và học hỏi về nghệ thuật ca trù của làng Đông Dương. Từ mối quan tâm chung là âm nhạc ca trù, chúng tôi có dịp để hiểu và quyến luyến nhau hơn. Tôi xin ở lại nhà đào Điểm, để nhờ cô dạy cho vài làn điệu ca trù.
 
Ngày hôm sau, tôi được học hát với đào Điểm cùng với sự giảng giải trên cây đàn đáy của kép Thể. Việc học hát không thể được thực hiện trong ngày một ngày hai, nhưng qua những sự chỉ dạy của hai vị nghệ nhân gạo cội này, tôi cố gắng nắm bắt được các nguyên tắc trong âm nhạc ca trù của làng Đông Dương. Tôi học cách đánh phách của đào nương để suy ra cấu trúc âm nhạc của các bài bản; học cách vào bài, cách ngưng nghỉ giữa các đoạn để biết được sự phối hợp giữa trống chầu, phách và hát; vừa học hát vừa nghe đàn để biết được nguyên tắc hòa tấu giữa hát và đàn…
 
Trong các đào hát ở làng Đông Dương, chỉ có cô Điểm có kỹ thuật “nảy hạt” đặc trưng của nghệ thuật hát ca trù. Cô giải thích cho tôi cách lấy hơi, cách ém hơi, cách nhả chữ làm sao để hát được những câu dài và thực hiện kỹ thuật “nảy hạt”. Dù không thể thực hiện ngay được, nhưng tôi cũng đã biết được các nguyên tắc chung trong cách hát ca trù. Cứ thế, những giờ phút trôi qua cùng các kép đàn, đào hát ở làng Đông Dương đã đem đến cho tôi những kiến thức quý báu mà tôi không thể nào tìm thấy trong sách vở.
 
Chúng tôi rời làng Đông Dương trong sự bùi ngùi vương vấn tình cảm từ cả hai phía. Đào Điểm tiễn chúng tôi đến tận cửa xe, ông kép Thể dù đã ở tuổi 77 và đang bị đau khớp chân vẫn thoăn thoắt trèo lên cây nhãn trước sân hái cho chúng tôi mấy nhánh ăn dọc đường, mặc cho tôi ngăn ông đừng trèo cây kẻo ngã. Những cái nắm tay, những cái ôm ghì níu giữ tình cảm chân tình của chúng tôi khi hẹn ngày tái ngộ. Tôi sẽ trở lại, nhất định tôi sẽ trở lại trong một ngày không xa …
                                                                                
TS. Phan Thuận Thảo
Học viện Âm nhạc Huế
,