.

Hỏi-đáp pháp luật

.
11:49, Thứ Sáu, 28/06/2019 (GMT+7)

(QBĐT) - Ông Nguyễn Văn Nghĩa (Đồng Hới) hỏi: Tôi đang thực hiện việc khiếu nại và đã được giải quyết khiếu nại lần đầu. Nay tôi không muốn khiếu nại lần 2 thì tôi có thể khởi kiện vụ án tại Tòa án có được không?

Trả lời: Điều 33 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định về việc khiếu nại lần hai hoặc khởi kiện vụ án hành chính như sau:

 "1. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại quy định tại Điều 28 của Luật này mà khiếu nại lần đầu không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai; đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày.

Trường hợp khiếu nại lần hai thì người khiếu nại phải gửi đơn kèm theo quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, các tài liệu có liên quan cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai.

2. Hết thời hạn giải quyết khiếu nại quy định tại Điều 28 của Luật này mà khiếu nại lần đầu không được giải quyết hoặc người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính”.

Đồng thời Điều 44 Luật Khiếu nại quy định về quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật như sau:

“1. Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu có hiệu lực pháp luật sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành mà người khiếu nại không khiếu nại lần hai; đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày.

2. Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai có hiệu lực pháp luật sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành; đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn có thể kếo dài hơn nhưng không quá 45 ngày.

3. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

4. Quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật có hiệu lực thi hành ngay”.

Như vậy, trong trường hợp không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại lần đầu thì ông có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

* Chị Đỗ Hoàng Anh (Đồng Hới) hỏi: Do cơ cấu nhân sự của Ban QLDA nơi tôi làm việc chưa đủ theo đề án vị trí việc làm được phê duyệt và khối lượng công việc quá nhiều phải thực hiện làm thêm giờ. Bộ luật Lao động quy định tổng số giờ làm thêm không quá 200 giờ/năm, nhưng do công việc quá nhiều nên thực tế số giờ làm thêm của mọi người vượt xa so với số giờ là 200 giờ. Theo Mục 2 Điều 16 Thông tư số 72/2017/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định Ban QLDA được chi mức cao hơn hay thấp hơn quy định. Vậy tôi có thể tính số giờ làm thêm cho mọi người trong Ban theo thực tế (lớn hơn nhiều so với 200 giờ) được không?

Trả lời:

1. Về số giờ làm thêm:

- Điểm b, khoản 2, Điều 106 Bộ luật Lao động quy định “Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 1 ngày, trường hợp áp dụng quy định làm việc theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 1 ngày; không quá 30 giờ trong 1 tháng và tổng số không quá 200 giờ trong 1 năm, trừ một số trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định thì được làm thêm giờ không quá 300 giờ trong 1 năm”.

- Khoản 3, Điều 26 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP ngày 10-5-2013 của Chính phủ quy định “các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và an toàn lao động, vệ sinh lao động quy định tại Nghị định này được áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức người thuộc lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân, trừ trường hợp văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến từng đối tượng này có quy định khác”.

Căn cứ điểm a, khoản 2, Điều 4 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP ngày 10-5-2013, Ban Quản lý dự án có thể được tổ chức làm thêm giờ từ trên 200 giờ đến 300 giờ/năm trong trường hợp phải giải quyết công việc cấp bách không thể trì hoãn.

- Khi tổ chức làm thêm giờ từ trên 200 giờ đến 300 giờ/năm thì người sử dụng lao động (Ban Quản lý dự án) phải thông báo bằng văn bản cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội địa phương theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 4 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP ngày 10-5-2013.

- Trường hợp huy động người lao động làm thêm giờ vượt quá số giờ quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 106 Bộ luật Lao động thì sẽ bị xử lý theo quy định tại khoản 4 và khoản 5, Điều 4 Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22-8-2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài theo hợp đồng.

2. Về tính tiền lương làm thêm giờ:

Theo quy định tại khoản 1, Điều 97 Bộ luật Lao động thì người lao động làm thêm giờ được trả lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc đang làm như sau:

- Vào ngày thường, ít nhất 150%;

- Vào ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%;

- Vào ngày nghỉ lễ, tết, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300% chưa kể tiền lương ngày lễ, tết, ngày nghỉ có hưởng lương đối với người lao động hưởng lương ngày.

Như vậy, theo quy định tại Bộ luật Lao động thì khi người lao động làm thêm giờ vào ngày nào thì được trả lương làm thêm tính theo ngày đó, cách tính tiền lương làm thêm giờ cho người lao động thực hiện theo các nguyên tắc nêu trên, bảo đảm người lao động làm thêm giờ được trả lương tính ít nhất bằng (hoặc có thể cao hơn) các mức tương ứng theo quy định tại Điều 97 Bộ luật Lao động.

Chi hội Luật gia Sở Tư pháp

,