.

Các chế tài xử lý tội phạm mới trong lĩnh vực bảo hiểm của Bộ luật Hình sự năm 2015

.
08:16, Thứ Tư, 29/05/2019 (GMT+7)

(QBĐT) - Thời gian qua, tình trạng các doanh nghiệp vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) trên địa bàn cả nước vẫn đang có chiều hướng gia tăng. Để ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm, Bộ luật Hình sự năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 1-1-2018) đã có các quy định xử lý hình sự đối với tội phạm mới trong lĩnh vực bảo hiểm...

Trước hết, đối với tội phạm mới về gian lận BHXH, BHTN được quy định tại Điều 214, Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS 2015) với mức hình phạt cao nhất là 10 năm tù. Tội này có 3 khung hình phạt.

Tại khoản 1, Điều 214 BLHS 2015 quy định, người nào thực hiện một trong các hành vi như: Lập hồ sơ giả hoặc làm sai lệch nội dung hồ sơ BHXH, BHTN lừa dối cơ quan BHXH; dùng hồ sơ giả hoặc hồ sơ đã bị làm sai lệch nội dung lừa dối cơ quan BHXH hưởng các chế độ BHXH, BHTN; chiếm đoạt tiền BHXH, BHTN từ 10 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng hoặc gây thiệt hại từ 20 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng (mà không thuộc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội tham ô tài sản và tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản) thì bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.

Ngoài ra, phạm tội thuộc một trong các trường hợp như: Có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; chiếm đoạt tiền BHXH, BHTN từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; gây thiệt hại từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; tái phạm nguy hiểm... thì bị phạt tiền từ 100 triệu đồng đến 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm.

Tại khoản 3, Điều 214 BLHS năm 2015 quy định nếu chiếm đoạt tiền BHXH, BHTN 500 triệu đồng trở lên hoặc gây thiêt hại 500 triệu đồng trở lên thì bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.

Tiếp đến, tội phạm mới liên quan đến gian lận BHYT được quy định tại Điều 215 BLHS năm 2015 với hình phạt cao nhất là 10 năm tù. Tội này có 3 khung hình phạt. Cụ thể, tại khoản 1 quy định người nào thực hiện một trong các hành vi như: Lập hồ sơ bệnh án, kê đơn thuốc khống hoặc kê tăng số lượng hoặc thêm loại thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật, chi phí giường bệnh và các chi phí khác mà thực tế người bệnh không sử dụng; giả mạo hồ sơ, thẻ BHYT hoặc sử dụng thẻ BHYT được cấp khống, thẻ BHYT giả, thẻ đã bị thu hồi, thẻ bị sửa chữa, thẻ BHYT của người khác trong khám chữa bệnh hưởng chế độ BHYT trái quy định; chiếm đoạt tiền BHYT từ 10 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng hoặc gây thiệt hại từ 20 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng (mà không thuộc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội tham ô tài sản và tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản) thì bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.

Ở khung hình phạt thứ hai của tội này quy định: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; chiếm đoạt tiền BHYT từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; gây thiệt hại từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; tái phạm nguy hiểm... thì bị phạt tiền từ 100 triệu đồng đến 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm.

Đặc biệt, đối với tội phạm mới về trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động được quy định tại Điều 216 BLHS năm 2015 với mức phạt tù cao nhất là 7 năm. Tại khoản 1 Điều 216 BLHS năm 2015 quy định, người nào có nghĩa vụ đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động mà gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác để không đóng hoặc không đóng đầy đủ theo quy định từ 6 tháng trở lên thuộc một trong những trường hợp sau đây: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 200 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm; trốn đóng bảo hiểm từ 50 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng; trốn đóng bảo hiểm cho từ 10 người đến dưới 50 người lao động.

Tại khoản 2 quy định trường hợp phạm tội 2 lần trở lên; trốn đóng bảo hiểm từ 300 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng; trốn đóng bảo hiểm cho từ 50 người đến dưới 200 người lao động; không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động từ 50 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng hoặc số tiền đã thu hoặc đã khấu trừ của từ 10 đến dưới 50 người lao động thì bị phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.

Tại khoản 3 quy định phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Trốn đóng bảo hiểm 1 tỷ đồng trở lên; trốn đóng bảo hiểm cho 200 người lao động trở lên; không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động từ 300 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng hoặc số tiền đã thu hoặc đã khấu trừ của từ 50 đến dưới 200 người lao động thì bị phạt tiền từ 500 triệu đồng đến 1 tỷ đồng hoặc bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng và cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.

Luật gia Lê Phương

,