Tín ngưỡng thờ Quan Thế Âm gắn với cộng đồng cư dân ven biển ở Quảng Bình

  • 07:16 | Thứ Tư, 16/08/2023
  • icon gmail
  • icon facebook
  • icon youtube
(QBĐT) - Quán Thế Âm Bồ tát là danh hiệu được phiên âm Hán-Việt của Bồ tát Avalokitesvara. Ở Quảng Bình, trước khi có sự hiện diện của người Việt, người tiền trú đã thờ phụng Quán Thế Âm Bồ tát dưới những ứng thân khác nhau. Trong số những hiện vật Chămpa ở Quảng Bình mà các nhà khảo cổ học Pháp đã khai quật được và công bố vào đầu thế kỷ XX, có khá nhiều hiện vật liên quan đến Quán Thế Âm bằng chất liệu đồng và sa thạch hay văn bia liên quan đến sự cứu khổ cứu nạn của Bồ tát.
 
Nổi bật nhất cần phải kể đến bức tượng có niên đại ước đoán từ thế kỷ IX đến thế kỷ X sau Công nguyên được tìm thấy ở làng Đại Hữu (Quảng Ninh), hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử TP. Hồ Chí Minh và bức tượng được tìm thấy ở làng Mỹ Đức (Lệ Thủy), có niên đại khoảng thế kỷ IX, X sau Công nguyên, hiện đang trưng bày ở Bảo tàng Guimet (Pháp).
 
Sự hiện diện phổ biến của các tượng Quán Thế Âm vào niên đại IX-X là điều không có gì ngạc nhiên, bởi đây là thời kỳ của triều đại Indrapura (Chămpa) với sự đặc biệt hưng thịnh của Phật giáo mà Quảng Bình là vùng đất cực Bắc của vương quốc này. Hơn thế, Indravarman II còn là một tín đồ thuần thành của Bồ tát Avalokitesvara.
Tượng Quán Thế Âm Bồ tát tìm thấy ở làng Đại Hữu-hiện đang được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử TP. Hồ Chí Minh. (<em>Nguồn: <strong>Trang web của Bảo tàng Lịch sử TP. Hồ Chí Minh</strong></em>)
Tượng Quán Thế Âm Bồ tát tìm thấy ở làng Đại Hữu-hiện đang được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử TP. Hồ Chí Minh. (Nguồn: Trang web của Bảo tàng Lịch sử TP. Hồ Chí Minh)

 

Trong khi đó, theo truyền thống Phật giáo của người Việt ở miền Bắc, Quán Thế Âm Bồ tát đã sớm hiện diện trong vai trò là một Phật bà cứu khổ cứu nạn, một vị Bồ tát sẵn sàng cứu vớt những ai bị tai nạn bởi hỏa hoạn, cướp bóc, thú dữ… Khi vùng Bố Chính, Lâm Bình (Quảng Bình) thuộc về Đại Việt (thế kỷ XI), cũng là thời điểm hưng thịnh của Phật giáo Việt Nam dưới thời Lý.

Theo đó, dù không ồ ạt như những giai đoạn về sau, nhưng người Việt từ đất Bắc cũng bắt đầu di cư đến vùng đất này và mang theo tín ngưỡng của họ. Trải qua suốt hàng trăm năm tiếp theo, nhất là từ thời kỳ chúa Nguyễn, Phật giáo trở thành “mẫu số tâm linh” chung của những tộc người có nguồn gốc, xuất xứ khác nhau, cụ thể là người Việt và người Chăm. Không quá khiên cưỡng nếu cho rằng, đây là một trong những nhân tố quan trọng để có được sự hòa hợp trong quá trình cộng cư, xen cư giữa người tại chỗ và người mới đến trong những ngày đầu đi về phương Nam.

Dĩ nhiên, trên con đường hoằng pháp của đạo Phật, tùy thuộc vào sinh cảnh, sắc dân, phong tục, quá trình “địa phương hóa” Phật giáo được tiếp tục thực hiện một cách tinh tế ở những phạm vi hẹp hơn, phù hợp với bối cảnh không gian, thời gian, cộng đồng cụ thể. Những huyền thoại, cảnh quan, hiện vật và thực hành tín ngưỡng ở các ngôi chùa mang tên Quan Âm ở xã Thanh Trạch và Đức Trạch thuộc huyện Bố Trạch chính là những trường hợp tiêu biểu cho sự lựa chọn xuất phát từ nhu cầu tâm linh của một nhóm cư dân có sinh kế gắn liền với biển cả.

Điểm dễ nhận thấy là các chùa Quan Âm được nhắc đến trên đây đều tọa lạc gần các cửa sông (Lý Hòa, Gianh). Đặc biệt, cửa Lý Hòa từ rất sớm được biết đến là một cảng biển (Dã Lý) buôn bán sầm uất từ thời Lý, Trần. Chùa Quan Âm (xã Thanh Trạch) ở cửa Lý Hòa còn có tên khác là chùa Bà, được cho là xây dựng vào năm Hồng Đức thứ 3 (1473). Đặt chùa Bà trong quy chiếu với chùa Ông (nay chỉ còn tên gọi với các tượng thờ được tập hợp về chùa Bà), có thể thấy đây là cặp thiết chế chùa Bà-chùa Ông thường thấy ở những cộng đồng có sự hiện diện của người Hoa. Do đó, không loại trừ đây là một ngôi chùa do Hoa thương góp công xây dựng bởi với dân đi biển Trung Quốc, họ thường kêu cầu Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ tát như một vị nữ hải thần khi gặp bão tố, hoạn nạn trên con đường đi xuống phương Nam.

Vị Quan Thế Âm Bồ tát này, được cho là “Quan Âm của người bình dân” vốn được thờ ở một hòn đảo ngoài khơi tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc). Nói cách khác, Avalokitesvara của đạo Phật đã đồng nhất với một nữ thần địa phương của Trung Hoa để trở thành một Quan Âm Bồ tát cứu khổ cứu nạn dưới dạng nữ thần, bảo trợ cho người đi biển. Vị nữ “Bồ tát bình dân” trong dạng hóa thân gần gũi này cũng được người Việt tiếp nhận bằng tình cảm tôn giáo xuất phát từ nhu cầu được che chở, phù trợ trước sự hiểm nguy của biển cả, hơn là một Avalokitesvara với biểu tượng và triết lý sâu xa của đạo Phật.

Khác với chùa Bà (xã Thanh Trạch), Quan Âm tự (xã Đức Trạch) xuất hiện muộn hơn, khởi dựng vào thời vua Gia Long (thế kỷ XIX), gắn với một truyền thuyết liên quan đến ngư nghiệp. Chuyện kể rằng, có một ngư dân đánh cá trên biển, một hôm, ông đã kéo lên được một tượng bằng đá, hai hôm sau ông kéo lên được 1 bệ đá và 2 chiếc cối, 2 chiếc chày bằng đá. Cho là điềm lành, nên dân làng đã dựng một lều tranh để thờ phụng. Thực tế, mô-típ phát hiện ngẫu nhiên các tượng thờ và lập miếu chùa để thờ tự dưới các danh xưng mới này khá phổ biến ở miền Trung và thường liên quan đến các di vật của người Chăm.

Bộ bàn nghiền được tín đồ Quan Âm tự (xã Đức Trạch) xem là một nghi cụ gắn với năng lực chữa bệnh của Quan Âm Bồ tát. Ảnh: Thăng Long
Bộ bàn nghiền được tín đồ Quan Âm tự (xã Đức Trạch) xem là một nghi cụ gắn với năng lực chữa bệnh của Quan Âm Bồ tát. Ảnh: Thăng Long

Đáng chú ý là các hiện vật dù dưới dạng nào thì đều được thờ phụng dưới dạng một nữ thần, cho dù nguyên thủy chúng là một đơn nguyên kiến trúc của đền tháp (tympan, bệ đá…) hay thậm chí là một linga vốn là biểu tượng mang đặc tính Dương của thần Shiva. Bức tượng dân gian truyền tụng là do người đánh cá vớt được vào đầu triều Nguyễn và định danh là “tượng đá” trên hiện trạng là một pho tượng Quan Âm ngồi kiết-già bằng gỗ với cốt đá bên trong. Điều đó cho thấy rằng, đây vốn dĩ là một tượng đá mà việc tái tạo và định danh “Quán Âm” hoàn toàn xuất phát từ ý muốn chủ quan của người dân địa phương.

Hẳn nhiên, điều đó phù hợp với nhu cầu tâm linh của một cộng đồng gắn liền với biển. Ngay cả bộ bàn nghiền/chày nghiền vốn còn chức năng nghiền hương liệu, các loại hạt như vốn có của người Chăm, người Việt địa phương đã xem đó là một nghi cụ gắn với năng lực chữa bệnh của Quan Âm Bồ tát. Khi cầu bình an, cùng với bùa bình an, họ sẽ lấy chày mài nhiều lần vào bàn mài, trong quá trình đó, dội cho nước chảy về phía mũi, xong hứng đem về uống như một thứ nước chữa bệnh linh thiêng mang màu sắc Đạo giáo.

Trong một cách hiểu nào đó, thông qua các di vật, đây là sự nối tiếp tục thờ Avalokitesvara của người Chăm tiền trú. Đó hẳn nhiên là sự lựa chọn từ truyền thống của các sắc dân khác nhau, ở những thời điểm lịch sử không giống nhau, song cùng gặp gỡ ở một nhu cầu tâm linh chung trên nền tảng Phật giáo và trong cảm quan chung trước biển.

Thực tế, việc thờ Phật Bà Quan Âm hay những ngôi chùa Quan Âm có mặt khắp các vùng đất có sự hiện diện của Phật giáo. Tuy nhiên, những Quan Âm tự thuộc các làng biển ở Bố Trạch lại mang một nội hàm riêng, mà ở đó, người ta có thể nhìn thấy những lớp trầm tích văn hóa xếp chồng lên nhau với những yếu tố ngoại tác và nội sinh đan xen, hòa quyện. Và, từ các trường hợp này, có thể thấy cùng với hoạt động giao thương sôi nổi, các cửa biển vùng Quảng Bình từ rất sớm là mảnh đất thu hút sự du nhập của tín ngưỡng thờ Quan Âm Bồ tát.

Nguyên Ninh

 

tin liên quan