Phóng sự - Ký sự
icon facebookFacebook icon phoneLiên hệ
icon categoryChuyên mục

Từ bước chân đầu tiên 60 năm trước và hy vọng hôm nay

  • 06:51 | Chủ Nhật, 26/11/2023
  • icon gmail
  • icon facebook
  • icon youtube
(QBĐT) - 60 năm, còn gọi là “lục thập hoa giáp”, quãng thời gian đáng để suy ngẫm về những “được-mất”, “hơn-thua” của một đời người! Tròn 60 năm trước, năm 1963, lần đầu tôi đặt chân đến Quảng Bình. 4 năm trước đó, theo các đơn vị làm cầu của Bộ Giao thông vận tải, tôi đã đến Pò Lội (Lạng Sơn), Ba Thá, Tế Tiêu (Hà Đông), Khe Choang, Khe Kiền (miền Tây Nghệ An), để rồi “một đi không trở lại” khi các “nhịp cầu nối những bờ vui”. Nhưng với Quảng Bình thì khác, 60 năm qua, không biết bao lần tôi đã trở về…
 
Thì mới ngay đây, giữa những ngày hè 2023, nắng 39-40 độ, tôi vừa có dịp về thăm những người thân ở hai bờ sông Kiến Giang. Chập tối, trước lúc trở lại Huế, tôi theo xe về Đồng Hới tiễn hai đứa cháu-một ra sân bay vô TP. Hồ Chí Minh, một lên tàu hỏa ra Hà Nội. Quảng Bình và Đồng Hới hôm nay đã thành điểm du lịch khá đông khách. Đường Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, cũng như các tuyến ven sông Nhật Lệ, rực rỡ ánh đèn và bảng hiệu hàng hóa. Trên đường ra sân bay và ga Đồng Hới, xe taxi và rất nhiều xe con tư nhân nối nhau vào tiễn người thân lên đường…
 
Trước khung cảnh đông vui của Đồng Hới hôm nay, tôi nhắc lại với đứa cháu chuyến “thám hiểm” Đồng Hới tròn 60 năm trước. Gọi là “thám hiểm” vì chàng trai 24 tuổi là tôi lúc đó không quen ai ở Quảng Bình, không thể tìm được nơi mình sẽ đến trên bản đồ-cầu Ka Tang đường 12A lúc đó là một địa danh gần như bí mật quốc gia! Nhưng thời đó, “đi đến nơi đâu Tổ quốc cần” không chỉ là khẩu hiệu trang trí ở hội trường, mặc dù lúc ấy, tôi nào đã hiểu gì mấy chỗ đứng mới của mình rồi sẽ trở thành một vùng đất nổi tiếng khắp thế giới. Đó là cách nhìn hai năm sau (khoảng từ tháng 4/1965), khi đoạn đường 12A lên đèo Mụ Giạ mà đài báo phương Tây gọi là “đầu mối đường mòn Hồ Chí Minh”, là nơi bị máy bay Mỹ đánh phá ác liệt nhất miền Bắc trong mấy năm đầu cuộc chiến tranh phá hoại...
 
Do không dễ nắm thông tin đường sá, xe cộ như bây giờ, tôi cứ nghĩ đã vào Quảng Bình thì phải mua vé xe vô Đồng Hới. Đến nơi, mới hay lúc đó chưa có xe khách chạy lên miền núi Minh Hóa. Thế là vật vờ 1 đêm tại bến xe Đồng Hới không ai quen biết, để sáng mai đi ô tô trở ra Hà Tĩnh, lại chờ chực để mua vé lên Chu Lễ (Hương Khê). Đây là điểm cuối của tuyến xe khách. Để đến được trụ sở Ban Kiến thiết 212 vừa dựng bên bờ khe Ka Tang, tôi chỉ còn cách tìm đến ga Chu Lễ, chờ mua vé đi xe goòng lên ga Tân Ấp. Đây là ga xép, địa đầu phía Bắc Quảng Bình, nằm trên đường sắt Thống Nhất hiện nay.
 
Hồi đó, đường sắt chỉ mới chạy đến Vinh. Từ Vinh vào đến Đò Vàng, hàng ngày có khoảng 3-4 toa tàu cũ, được kéo bởi một đầu máy ô tô “cải tiến” cọc cạch chở khách và hàng hóa trong vùng, chạy trên đoạn đường sắt gần như bỏ hoang, lau lách trùm lên cả đường ray. Vậy mà chính trên đoạn đường goòng này, từ thời chống Pháp, một đội ngũ công nhân đặc biệt đã lập được chiến tích không nhỏ trong việc tiếp vận cho chiến trường Bình Trị Thiên. Tuyến 559-Đường Trường Sơn là vĩ đại, nhưng không thể quên đoạn đường goòng Vinh-Đò Vàng bền bỉ và can trường giữ vững lưu thông suốt hai cuộc kháng chiến.
 
60 năm trước, trên một chuyến goòng như thế, tôi xuống ga Tân Ấp-lần thứ hai trong 3 ngày, đặt chân lên đất Quảng Bình. Sân ga chỉ lèo tèo vài người, hỏi đường lên Ka Tang, họ chỉ đoạn đường ô tô men vách núi phía trước lên cao dần và bảo, vẻ thương hại: “Tội! Một thân một mình… Còn xa lắm! Mà trời sắp tối rồi. Cậu ra đường, may ra có đoàn xe quân sự chạy qua, xin đi nhờ…”.
 
***
 
Tròn 6 thập kỷ đã qua từ ngày đó! Anh chàng kỹ thuật viên 24 tuổi xuân lơ láo trên sân ga Tân Ấp hoang sơ ngày đó, nay đã thành ông lão vượt bát tuần dăm năm rồi! Con đường men vách núi cạnh ga Tân Ấp đi ngược lên Ka Tang ngày nào đầy lau lách, bí hiểm hù dọa những ai lần đầu đặt chân đến, nay thuộc đường Hồ Chí Minh, hàng ngày xe khách không chỉ chạy qua Ka Tang mà sang tận Viêng Chăn (Lào) đua chen với hàng loạt xe tải to kềnh chuyên chở hàng hóa trao đổi giữa ba nước Việt-Lào-Thái... Đất nước quả đã lật qua trang sử mới nên hai đứa cháu cùng độ tuổi của tôi 60 năm trước, mới có xe tiễn tận sân ga.
Tác giả cùng ông Lại Văn Ly (hai người đứng cạnh cột mốc biên giới) trở lại thăm đèo Mụ Giạ năm 2009 trong dịp làm phim “Khúc tráng ca đồi 37”.
Tác giả cùng ông Lại Văn Ly (hai người đứng cạnh cột mốc biên giới) trở lại thăm đèo Mụ Giạ năm 2009 trong dịp làm phim “Khúc tráng ca đồi 37”.
Với tôi, những năm tháng gian khổ ở Quảng Bình hóa ra lại là điều may mắn. Một kẻ đang thầm nuôi mộng văn chương như tôi, được sống nơi đầu sóng ngọn gió, được chia sẻ nỗi đau khi đồng đội hy sinh, được chung niềm vui ngày chiến thắng với mọi người là những trải nghiệm vô giá tạo nên phẩm cách người cầm bút. Nhờ đó, tập sách đầu tay ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh niên-1968) và 2 tiểu thuyết “Đường qua làng Hạ” (NXB Thanh niên-1976), “Đường giáp mặt trận” (NXB Lao động-1976) đã được ra đời…
 
***
 
Nhắc đến những bước đầu tiên đến với văn chương, tôi không thể quên công ơn và sự quan tâm đặc biệt của hai thủ trưởng trực tiếp là ông Lại Văn Ly và ông Lê Đức Mận-người được cử làm Trưởng ty Giao thông khi ông Lại Văn Ly lên làm Phó Chủ tịch kiêm Trưởng ban Bảo đảm giao thông tỉnh Quảng Bình. Năm 1967, nhân chuyến ra Thủ đô Hà Nội công tác và chữa bệnh, theo đề nghị của nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh, quê Quảng Bình cùng với nhà viết kịch Học Phi (tác giả viết vở kịch về cuộc chiến bi tráng tại “Đồi 37”), ông Lại Văn Ly cho tôi ở lại Hà Nội thêm 1 tháng để hoàn thành tập ký sự đầu tay “Vì sự sống con đường”…
 
Cuối năm 1968, khi Hội Nhà văn Việt Nam mở lớp “Bồi dưỡng viết văn trẻ khóa 3” (tiền thân của Trường viết văn Nguyễn Du sau này), gửi công văn đề nghị Ty Giao thông Quảng Bình cho tôi ra học, ông Lê Đức Mận đã thân tình bảo tôi đại ý: Đảng ủy và Ty đồng ý để cho tôi đi học, nhưng quyết định cuối cùng là của đương sự… Ông nói vậy, vì đó là giai đoạn Mỹ “ném bom hạn chế”, Quảng Bình thực sự là nơi chúng thử đủ loại vũ khí mới như bom từ trường, thủy lôi; một mình đạp xe ra Hà Nội rất dễ bỏ xác dọc đường!... Khi lớp học kết thúc, tôi còn được ở lại Nhà sáng tác Quảng Bá (nay là Bảo tàng Văn học Việt Nam) một thời gian để viết tiếp tiểu thuyết đầu tay “Đường qua làng Hạ”…
 
Năm 1970, vào lúc Quảng Bình và miền Bắc tạm có hòa bình, tôi lại được ông Lê Đức Mận cho ra dự trại sáng tác về đề tài công nhân do Hội Nhà văn và Tổng Công đoàn Việt Nam tổ chức suốt 6 tháng liền tại một làng thuộc huyện Quốc Oai (Hà Tây). Ở đây, tôi đã khởi thảo bộ tiểu thuyết 2 tập dày 1.000 trang với bối cảnh chính là đường 12A. Do chiến tranh phá hoại lại tiếp tục ác liệt từ năm 1972, rồi cả nước tập trung cho chiến dịch mùa xuân 1975, cuốn tiểu thuyết đến năm 1976 mới được xuất bản với tên “Đường giáp mặt trận” (NXB Lao động) và năm 1980, tập 2 ra đời với tên “Chỗ đứng người kỹ sư”. Năm 2012 (cùng với tiểu thuyết “Những cánh cửa đã mở”), tiểu thuyết “Đường giáp mặt trận” đã được tặng Giải thưởng Nhà nước.
 
Có thể nói, không trực tiếp trải nghiệm cuộc sống phong phú trên đất Quảng Bình, không có các thủ trưởng biết quan tâm đến sáng tác văn nghệ như ông Lại Văn Ly, Lê Đức Mận, tôi không viết được những tác phẩm như vừa kể. Nhớ lại những ngày đầu đến Quảng Bình và cũng là dịp bày tỏ lòng biết ơn đối với hai thủ trưởng đã hết lòng giúp đỡ một cây bút trẻ, tôi hy vọng là Quảng Bình cũng như các địa phương khác, trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thể hiện sự quan tâm ngày càng nhiều hơn đối với hoạt động văn hóa-văn nghệ hiện nay, sẽ có những quyết sách cụ thể, tạo điều kiện cho các mặt hoạt động văn hóa-văn nghệ ở địa phương phát triển thuận lợi…  
 
 Nguyễn Khắc Phê

tin liên quan

Ngày thu ở... 30 Hoàng Diệu

(QBĐT) - 10 năm nay... "Cửa sổ 30 Hoàng Diệu vẫn mở đấy thôi/Mây trắng nhớ nụ cười Người vương nắng/Gió len phòng hong khô ngày nước mắt/Đừng vội tan hơi ấm cuối còn gần...".

Như dòng Mê Kông chảy mãi - Bài 3: Người lính trở về

(QBĐT) - Bình yên trở về, những người lính năm xưa lại gắn bó bên nhau, sẻ chia cùng nhau những gian khó đời thường. Nhớ về quá khứ, hướng đến tương lai, mỗi ngày, họ lại cùng vun bồi cho tình cảm tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt Nam-Campuchia thêm khăng khít, keo sơn.

Như dòng Mê Kông chảy mãi - Bài 2: Cuốn nhật ký xuyên biên giới

(QBĐT) - Hơn 40 năm, cuốn nhật ký đã ngả màu nhưng Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân khu 4, cựu quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia vẫn giữ bên mình như một báu vật.