Ký sự làng biển:

Đi tìm hải trình biển Đông bằng thơ - Kỳ I: Những vần thơ cao vút trên sóng

Cập nhật lúc 07:53, Thứ Sáu, 20/07/2012 (GMT+7)

(QBĐT) - Tôi vốn sống ở một làng biển Quảng Bình. Lớn lên trong những câu hò điệu hát trên cát làng. Làng biển có gia tài phong phú thơ ca hò vè. Một trong những gia tài đó là hải trình biển Đông bằng thơ tự do rất tài hoa. Người miền biển tự sáng tác, truyền lưu đời này qua đời khác để con cháu biết biển Đông là quê cha đất tổ.

Người làng cát như con dã tràng, cần cù bồi đắp gia tài văn hoá của mình bằng truyền khẩu. Họ thông thái ở việc ứng tác tài hoa. Những câu thơ họ xướng lên hay lạ kỳ.

"Lược trình ra Bắc lược kê mấy dòng"

Về làng biển Bảo Ninh (Đồng Hới), những nghệ nhân già vẫn thường xướng lên một vài câu trong điệu hát hải trình biển Đông. Nghệ nhân Trương Xa nói: "Người kẻ biển xa xưa, tiếng ít học, chữ nghĩa chẳng biết. Thơ ca ứng tác vài câu trên sóng gió cho vui. Nhưng mỗi người mỗi câu, bắt đầu dồn lại thành bài dài ngắn khác nhau. Lâu dần, những điệu hò hát dày lên không ai biết từ lúc nào. Đến hôm nay, thì làng biển tự hào có nhiều câu thơ hải trình hiếm vùng nào có".

Miếu thờ biển Đông bên chân sóng ở làng Sa Động, Bảo Ninh, Đồng Hới. Tương truyền, đây là nơi ra đời những câu thơ hải trình đầu tiên.
Miếu thờ biển Đông bên chân sóng ở làng Sa Động, Bảo Ninh, Đồng Hới. Tương truyền, đây là nơi ra đời những câu thơ hải trình đầu tiên.

Nói đoạn ông lên tiếng đọc hải trình biển Đông đi ra: Cựa lạch Roòn sóng dồn ký ức/ Nơi ghe thuyền thổn thức tình quê/ Những ngày xuôi ngược đi về /Lược trình ra Bắc lược kê mấy dòng/ Ngó ra mù mịt hòn Ông/ Ngoài sóng ngả một vùng rạn Ló/ Dãy Hoành Sơn lồ lộ cao phong/ Thuyền đi yên ngựa thẳng dong/ Núi Ôông chộ mặt, mụi Rồng nê ra/ Dáng vụng Chùa, thân bà phơi cánh/ Bóng Hòn La thấp thoáng kề bên/ La ngoài, Cỏ trửa hai bên/ Mụi Ông trong bại đất liền bò ra/ Chạy kênh trong vừa qua Xó Rác/ Gió Nam Lào bụi cát từng cơn/ Gió rọc thổi dưới Nam Sơn/ Núi cao, cò thắt, lắm cơn gió lò/ Hòn Sơn Dương mịt mờ xanh biếc/ Rạn Thôn Đông nối tiếp không rời/ Bến chim, đảo cánh bắt mồi/ Rọc Roòn ngó chộ là nơi vụng Nàng/ Trong vụng Nàng có chàng vụng Áng/ Nơi trú chưn ngày tháng động trời/ Khi mô gió tốt êm vời/ Vượt qua cựa khẩu là nơi an điềm/ Cựa lạch Sót lặng bằng trong vụng/ Thuyền chạy lên đưa đúng đòn cân/ Hồng Lam qua đó cũng ngưng/ Nơi đây Nghệ-Tĩnh sóng dâng cũng vào/ Qua Bãi Đào, rú cao Hòn Mắc/ Ngó mù khơi như lạc một mình/ Hòn Nồm nho nhỏ xinh xinh/ Qua cống lạch Nghệ cho tinh kẻo lầm/ Mé nước ngầm vàng thâm đỏ tía/ Đảo Song Ngư đáo địa thuở nào.

Ông đọc như vun cát thành chữ, như gom chữ thành câu, giọng ngân lên nặng tiếng địa phương. Những "chưn", "ngưn", "nê", "cựa", "chộ"... là lời bản địa người miệt cát, nó có nghĩa là "chân", "dừng", "dôi, "cửa", "thấy"... Đó là sự chân thành của giọng điệu dân biển, sớm hôm nắng gió, không học rộng tài cao để mài dũa câu chữ thô mộc ra hoa mỹ.

Hải trình bằng thơ từ đâu?

Tôi vẫn thường thắc mắc, không biết từ đâu có hải trình bằng thơ dài gần 300 câu. Có dị bản đến hơn 1.000 câu, có dị bản chừng 600 câu. Sau nhiều năm tìm kiếm, sưu tầm, những lời của ngư phủ góp ý, họ cho rằng, bản gần 300 câu có số phận lưu truyền nhiều nhất bởi dễ hiểu, dễ nghe, không cầu kỳ múa máy. Nó được chia làm năm phần với hai chặng hải trình đi ra và hải trình đi vào. Tính toán qua truyền khẩu, họ chưa biết ra đời từ lúc nào. Đó là dị bản hay. Trên thuyền đánh bắt làng biển xa xưa, không bút viết, giấy mực, chẳng học hành chữ nghĩa để vận từ, vận nghĩa êm thắm như lụa, dạt dào như trăng, lững lờ như mây, vậy mà thơ về hải trình biển cả vẫn cao vút hơn con sóng vỗ vào mạn thuyền.

Nhiều năm lăn lộn trên cát làng, đi về nhiều làng biển, mới khám phá được rằng, đó là nhu cầu hiển nhiên của lòng người. Giữa biển cả mênh mông, khi những cánh buồm buông xuống, neo thuyền ngơi nghỉ, bạn thuyền người sửa lưới, kẻ làm cá, mỗi người một việc, những lúc đó, nhớ đất liền, nhớ nhà da diết, trái tim bỗng cất lên bao vần điệu một cách tự nhiên. Lão ngư Trương Xa vốn là người giáo làng, hay sưu tầm văn hoá dân gian miệt biển để bồi bổ cho tìm tòi của mình cũng đồng tình điều đó. Nhưng ông bổ sung thêm: "Một người xướng lên, nghe hay, người khác xướng tiếp. Có thể lúc đầu câu chữ còn trúc trắc, nhưng lao động tập thể, người này góp ý, người kia mài dũa để thơ hải trình chắc như dây thừng, bám vào tâm cốt ngư dân, mỗi người một nhịp buồm, thuyền qua đâu ứng lên câu đó. Lâu dần, thơ hải trình nối dài với những chuyến đi lâu ngày".

Đình làng biển bao giờ cũng là nơi cuối năm hoặc lễ cầu mùa  được xướng lên  nhiều điệu hò khoan, chèo cạn,  trong đó có hải trình biển Đông
Đình làng biển bao giờ cũng là nơi cuối năm hoặc lễ cầu mùa được xướng lên nhiều điệu hò khoan, chèo cạn, trong đó có hải trình biển Đông

Tôi đã cố công sưu tầm thật nguyên bản thơ hải trình bằng tiếng địa phương, nhưng qua bao dâu bể, mỗi thời mỗi khác, câu chữ có phần thay đổi âm điệu khi thốt lên nhưng nghĩa tự vẫn cơ bản vuông vắn, thô mộc trước sóng gió.

Giọng điệu mở đầu hải trình thật tự nhiên: "Cựa lạch Roòn sóng dồn ký ức/ Nơi ghe thuyền thổn thức tình quê/ Những ngày xuôi ngược đi về /Lược trình ra Bắc lược kê mấy dòng". Tự nhiên như tiếng cát lăn, tự nhiên như tiếng sóng vỗ, tự nhiên như tiếng cá vùng. Chỉ mấy dòng thôi cũng thấy bao địa danh được vẽ ra để người đi biển biết nơi đâu nông cạn mà tránh, nơi nào sâu thẳm, sóng yên mà trú mưa to gió lớn. Họ cũng nhận biết đi qua vùng đất anh tài Nghệ-Tĩnh, rồi núi Hồng Lam lừng lững soi bóng xuống nước biếc cũng lộ rõ giữa hành trình biển cả bao la.

Người giáo làng biển Trương Xa nói: "Hồi tui nhỏ, những người già đọc rồi giảng giải, các địa danh xướng lên trong hải trình biển Đông không đơn giản là danh từ, đó còn là một biệt vùng văn hoá phồn thịnh mà người vùng biển muốn răn dạy con cháu học tập. Nghệ-Tĩnh rồi Hồng Lam trong ký ức của nhiều vùng, đó còn được gọi là vùng văn hoá Lam Hồng hay Lam Hạ mà kẻ biển ngưỡng mộ". Thâm ý của cha ông đi biển, làm thơ hải trình thật nhân văn, dạy bảo cháu con như chắt chiu từng giọt nước mắm tinh hoa từ biển. Một kiểu mặn mòi tràn đầy cá tính.

                                                                Kỳ II: Hành trình lồng lộng hải hồ

                                                                                      Minh Phong

 

,
.
.
.