Đất và người Quảng Bình
icon facebookFacebook icon phoneLiên hệ
icon categoryChuyên mục

Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi

  • 17:48 | Thứ Sáu, 16/06/2023
  • icon gmail
  • icon facebook
  • icon youtube
(QBĐT) - Tháng 5, trời cao vời vợi. Theo kế hoạch công tác của đoàn công tác số 15 của Quân chủng Hải quân, chiều 24/5/2023, tôi cùng một phóng viên của Thời báo Văn học nghệ thuật lên sân bay Nội Bài (Hà Nội). Chúng tôi có mặt tại khách sạn Trường Sa (TP. Cam Ranh, Khánh Hòa) sau gần 2 tiếng bay.
 
Đoàn ra mấy đảo và nhà giàn DK1 lần này gồm hơn 220 đại biểu thuộc 22 đầu mối đơn vị, địa phương trong cả nước. Đặc biệt, trong đoàn có sự góp mặt của đại biểu đến từ 7 tỉnh: Đồng Nai, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Điện Biên, Lào Cai và Kon Tum, mang tình cảm của đồng bào và bà con các dân tộc đến với cán bộ, chiến sĩ đang làm nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo và chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
 
Buổi chiều 25/5, trước hải trình, sau bữa cơm tối, tôi ra sảnh đón gió biển. Gió biển từ vịnh Cam Ranh thổi dào dạt. Thi thoảng vài hạt mưa giông, đỏng đảnh giữa hè. Hình như trước bất cứ việc gì, có vài hạt mưa đều may? Sự giao hòa của đất trời dường như có ý nghĩa về tâm linh lắm.
 
Tại sảnh khách sạn Trường Sa, bất ngờ, tôi được gặp ông Trần Văn Lịch, quê Quảng Bình. Nghe tiếng nặng nặng của miền Trung, nên tôi lân la hỏi chuyện. Mới hay, ông Trần Văn Lịch là cựu chiến binh, từng công tác trong lực lượng Hải quân, gắn bó với Trường Sa. Người đàn ông thấp bé, có làn da nồng nã gió biển này, sinh ra tại làng biển Lý Hòa (Bố Trạch).
Ông Lịch cho biết, đoàn cựu chiến binh Hải quân Quảng Bình (xin được gọi tắt là đoàn Quảng Bình) tham gia đoàn công tác số 15, ngoài ông làm trưởng đoàn, còn có các ông: Phạm Minh Cảnh, Nguyễn Thanh Việt, Hồ Quý Hữu, Trần Văn Tư. Đơn vị cũ của họ là Hải đội 413, nay là Lữ đoàn 955, Quân chủng Hải quân.
Niềm vui gặp lại (ông Trần Văn Lịch bên trái ảnh).
Niềm vui gặp lại (ông Trần Văn Lịch bên trái ảnh).
Thời tại ngũ, họ ở nhiều bộ phận khác nhau của Quân chủng Hải quân, nhưng điểm giống nhau ở chỗ, họ đều yêu biển, đảo, có mặt ở nhiều đảo thuộc quần đảo Trường Sa, ở những thời điểm đặc biệt. Trên từng khuôn mặt lam lũ, ngang dọc ký ức, tôi nhận ra họ rạng ngời. Thật vui khi được trở lại thăm “chiến trường xưa”, giữa muôn trùng sóng vỗ.
Trước khi xuất bến, sáng 25/5, thành viên đoàn công tác đã đến dâng hương tri ân Khu tưởng niệm chiến sĩ Gạc Ma và Đài tưởng niệm liệt sỹ tù chính trị Cam Ranh. Đây là lần đầu tôi có mặt tại khu tưởng niệm (được khánh thành cách đây đã 5 năm). Khu tưởng niệm gồm 5 khu vực: Quảng trường lối vào; tượng đài chiến sĩ Gạc Ma; khu trung bày ngầm; mộ gió và quảng trường Hòa Bình; con đường hoài niệm.
 
Trước mặt tôi, một màu trắng toát. Cụm nhân vật là hình tượng 9 người lính (đại diện cho 64 chiến sĩ) đã nằm lại phía chân trời giữa từng lớp sóng xô, sau lưng vẫn hiên ngang cờ Tổ quốc. Trang nghiêm, biết ơn, thành kính, đoàn Quảng Bình xếp một hàng dọc, ngoài cùng bên trái. Ông Trần Văn Lịch kể lại cho tôi nghe về sự kiện bi hùng ngày 14/3/1988, giọng trầm, khan, ngắt quãng vì xúc động. Đã 35 năm tôi qua, nếu tính sáu giai đoạn một đời người, đã vào khung “tứ thập bất hoặc” (Khổng Tử).
 
Tôi kể cho ông Trần Văn Lịch nghe cụm tượng đài "Những người nằm lại phía chân trời" là bức tượng có ý nghĩa đặc biệt đối với tác giả điêu khắc Lâm Quang Nới. Tượng được giới chuyên môn đánh giá cao về ý tưởng, bố cục, nghệ thuật tạo hình. Công trình không những có ý nghĩa về lịch sử mà còn có ý nghĩa về tâm linh. Công trình là thông điệp của tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, sự vững vàng nơi đầu sóng ngọn gió và tình yêu vô bờ bến mà các Anh hùng liệt sỹ Hải quân Việt Nam đã dành cho non sông Việt Nam.
 
Sau khi dâng hương, đoàn công tác vào tham quan khu trưng bày ngầm dưới mặt đất, gồm ba phần: Quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, biển đảo Việt Nam; chiến sĩ Gạc Ma và sự kiện ngày 14/3/1988; Công đoàn Việt Nam với biển, đảo của Tổ quốc. Trước khu trưng bày, mọi người đều nhận ra quảng trường Hòa Bình hướng về phía Biển Đông cùng với khu “mộ gió” của 64 liệt sĩ Gạc Ma với đầy đủ họ, tên, địa chỉ. Ông Trần Văn Lịch đi cạnh tôi im lặng. Thi thoảng, ông giới thiệu thêm.
 
Sáng 26/5, đoàn công tác số 15 chính thức xuất bến. Sau hơn 29 tiếng hải trình, đoàn xuống ca nô, chính thức đặt chân lên đảo Đá Thị, điểm dừng chân đầu tiên. Sau Đá Thị là Sinh Tồn, Cô Lin, Đá Đông A, Trường Sa và Nhà giàn DK1. Tại các điểm đến, thành viên đoàn công tác số 15 nói chung, đoàn Quảng Bình nói riêng đều được thăm nơi ăn ở, sinh hoạt, gặp mặt, tặng quà động viên cán bộ, chiến sĩ; trồng cây lưu niệm, giao lưu văn hóa, văn nghệ, biểu diễn nghệ thuật phục vụ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Sự chuẩn bị của đoàn Quảng Bình khá chu đáo, ở bất cứ đảo nào, đoàn cũng có quà tặng cán bộ, chiến sĩ.
 
Trong hải trình, đoàn công tác đã được chứng kiến những nỗ lực không ngừng nghỉ của cán bộ, quân dân huyện đảo Trường Sa. Sắc xanh của Trường Sa gợi lên không gian bình yên của những làng quê Việt Nam và cũng là hiện thân cho ý chí, quyết tâm xây dựng quần đảo Trường Sa thành chốt tiền tiêu chiến lược của Tổ quốc. Các chiến sĩ Hải quân cùng quân dân cả nước đang chung tay “xanh hóa” Trường Sa bằng nhiều việc làm hiệu quả, thiết thực.
Cựu chiến binh Trần Văn Lịch (trái ảnh) và cựu chiến binh Phạm Minh Cảnh (phải ảnh) tặng quà các chiến sĩ trên đảo Đá Thị (quần đảo Trường Sa).
Cựu chiến binh Trần Văn Lịch (trái ảnh) và cựu chiến binh Phạm Minh Cảnh (phải ảnh) tặng quà các chiến sĩ trên đảo Đá Thị (quần đảo Trường Sa).
Tôi để ý thấy, Trần Văn Lịch, Phạm Minh Cảnh, Nguyễn Thanh Việt, Hồ Quý Hữu, Trần Văn Tư ngắm nghía các công sự, lặng lẽ vào các vườn rau xanh được quây kín để giảm thiểu ảnh hưởng của gió mặn, giông bão. Trần Văn Lịch nâng niu từng lá mùng tơi, cành rau muống... trong các hộp xốp.
 
Hôm ở Trường Sa lớn, cựu chiến binh Trần Văn Tư cứ tìm lại những công sự thời tham gia xây dựng. “Tìm không ra nữa, nơi này, nơi này...”, ông xúc động. Đúng là những công sự sơ khai ngày trước, đã thay đổi.
 
“Ngày xưa khổ hơn bây giờ biết mấy. Bộ đội giờ đã tự túc được rau nhờ giống, đất mang từ đất liền. Xưa làm chi có”, giọng ông Trần Văn Lịch vừa chắc nịch, tin tưởng vừa cảm xúc. Tôi nhớ, trên tàu ông đã nói, thời đó đi biển bằng tàu 200 tấn, nằm trên sàn tàu. Chao ơi, tàu KN 491 hôm nay, có khoang 3 tầng, hơn 20 chục con người nhường nhịn lối ra/vào nhưng đã sướng hơn thời các anh nhiều lắm. KN 491 tải trọng 2.000 tấn, gấp mười lần thời người lính đảo Trần Văn Lịch.
 
Sau khi xuất ngũ, các anh đoàn Quảng Bình, mỗi người làm một nghề khác nhau trên quê hương Quảng Bình. Nguyễn Thanh Việt có thời gian đi xuất khẩu lao động ở Đông Đức (cũ); Phạm Minh Cảnh, Hồ Quý Hữu, Trần Văn Tư “chung thủy” với nghề nông. Tôi nể phục Trần Văn Lịch. Sau khi “cởi áo lính”, ông "quẩy tráp" ra TP. Hải Phòng học Trường đại học Hàng hải Việt Nam và trở thành sĩ quan trên tàu viễn dương, rong ruổi cùng biển khơi, đến lúc nghỉ hưu.
 
Có lẽ vì thế, trong câu chuyện, ông nắm khá chắc về Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS 1982), Luật Biển Việt Nam, luồng lạch, thời tiết, khí hậu biển... kể nhiều chuyện buồn, vui về nghề. Tôi chưa hiểu “lớp lang” trong tâm hồn ông, nhưng dám quả quyết một điều, ông là con người trung kiên, thủy chung với lý tưởng, trân quý những năm tháng đã cống hiến, vượt lên gian khó trong thời gian quân ngũ. Ông dám lên tiếng phản bác lại những nhận thức sai lệch...
Tôi mừng vì họ sau khi rời quân ngũ đều biết tổ chức cuộc sống, bây giờ đều đã thành ông, thành bà, tiếp tục truyền cảm hứng biển, đảo với thế hệ con cháu. Mừng hơn, họ đã được tổ chức lại trong Câu lạc bộ Cựu chiến binh Hải quân ở Quảng Bình, cùng nhau sinh hoạt, ôn cố tri tân, động viên, sẻ chia nhau trong cuộc sống. Ở họ luôn ngời sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, trân quý những giá trị mà cha ông và lớp lớp người đi trước để lại.
 
6 ngày lênh đênh cùng con tàu KN 491, tôi đọc cho ông Trần Văn Lịch nghe nhiều bài thơ hay về biển, như: “Thuyền và biển” của cố nhà thơ Xuân Quỳnh, bài “Tổ quốc nhìn từ biển” của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến...“Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất/Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi”, (Tổ quốc nhìn từ biển). Họ đã rời quân ngũ từ lâu, nhưng trái tim họ dường như vẫn vẹn nguyên phía đảo...
 
Tùy bút của Ngô Đức Hành
 

tin liên quan

Bài 2: Để các di tích phát huy giá trị

(QBĐT) - Những năm qua, huyện Quảng Ninh đã có nhiều chính sách, tập trung nguồn lực để làm tốt việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa trên địa bàn.

Bài 1: Khó khăn trong quản lý, bảo tồn di tích

(QBĐT) - Thời gian qua, công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị các di tích trên địa bàn được huyện Quảng Ninh quan tâm thực hiện.

Bài 2: Yêu quê hương qua từng trang sách

(QBĐT) - Trong bối cảnh nền giáo dục thuộc địa với chính sách ngu dân, những cuốn sách giáo khoa về văn hóa-địa lý-lịch sử Quảng Bình đóng vai trò quan trọng trong việc bồi đắp tình yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào về đất và người Quảng Bình cho các thế hệ học sinh.