Tinh thần Ngày Toàn quốc kháng chiến luôn có ý nghĩa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Cập nhật lúc 10:24, Thứ Hai, 19/12/2011 (GMT+7)

(QBĐT) - Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, đất nước Việt Nam chúng ta đứng trước một tình thế đặc biệt hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”. Cách mạng mới thành công, chính quyền nhân dân vừa ra đời, ta chưa đủ thời gian xây dựng lực lượng vũ trang chính quy để bảo vệ nền độc lập đã giành được trong cả nước. Nền kinh tế của đất nước bị kiệt quệ, nạn đói, bệnh tật thiên tai lũ lụt đe dọa nghiêm trọng. Cùng lúc có nhiều quân đội nước ngoài cùng nhiều loại đảng phái phản động lăm le lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lập lại chính quyền tay sai và cướp lại nước ta một lần nữa.

Ngày 23-9- 1945, được sự giúp đỡ của quân Anh và quân Nhật, quân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ ở Nam Bộ. Chủ trương của ta là kiên quyết giữ vững mục tiêu cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc Việt Nam, nên chúng ta đã áp dụng nhiều biện pháp chiến lược và sách lược hết sức mềm dẻo để đưa cách mạng tiếp tục tiến lên. Khi thì tạm thời hòa hoãn với Tưởng để rảnh tay đối phó với Pháp; khi thì tạm thời hòa hoãn với Pháp để đẩy quân Tưởng và bọn tay sai ra khỏi nước ta. Riêng đối với Pháp, Chính phủ ta đã nhiều lần đàm phán với họ, ký Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 để cho 15.000 quân Pháp vào thay thế quân Tưởng ở miền Bắc nước ta, để Pháp thừa nhận Việt Nam là một nước tự do. Cho dù Pháp không chịu thực hiện cam kết, cứ lấn dần từng bước, nhưng vì thiết tha với hòa bình, độc lập, tư do và thống nhất, ta đã ký với Pháp Tạm ước 14-9-1946 nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hóa; mặt khác cũng để trì hoãn thời gian khởi chiến mà tranh thủ xây dựng lực lượng. Điều đó thể hiện quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập của đất nước vừa giành được, đồng thời biểu thị nguyện vọng hòa bình của toàn thể dân tộc Việt Nam.

Chúng ta đã thực lòng muốn tránh đổ máu, tìm mọi cách để đẩy lùi cuộc chiến tranh. Chúng ta đã nhiều lần nhân nhượng, nhưng càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Chúng đòi hỏi nhân dân ta phải đầu hàng. Nếu chúng ta không cầm vũ khí đứng dậy bảo vệ chủ quyền đất nước, thì chỉ còn cách cam chịu làm nô lệ một lần nữa như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân tộc Việt Nam nay bị đặt trước hai đường, một là khoanh tay, cúi đầu trở lại nô lệ, hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập”.

Quân Pháp liên tục mở các cuộc hành binh lấn chiếm ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Ở Bắc Bộ, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và cuối tháng 11- 1946 bắt đầu mở rộng chiến tranh trên quy mô lớn. Đầu tháng 12 - 1946, tình hình càng nghiêm trọng hơn. Sau khi tăng thêm quân, chiếm đóng trái phép Đà Nẵng và Hải Dương, Pháp đưa thêm viện binh đến Hải Phòng, mở rộng đánh chiếm Đồ Sơn, Đình Lập và liên tiếp gây ra nhiều vụ xung đột, khiêu khích ở Hà Nội.

Trước tình hình đó, Chính phủ nước ta vẫn kiên trì tìm cách duy trì hòa bình, tránh cuộc chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: ‘’Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh... Nước Việt Nam cần kiến thiết, nước Việt Nam không muốn là nơi chôn vùi hàng bao nhiêu sinh mạng. Nhưng cuộc chiến tranh ấy, nếu người ta buộc chúng tôi phải làm thì chúng tôi sẽ làm . .. Nước Pháp có những phương tiện ghê gớm và cuộc chiến đấu sẽ khốc hại, nhưng dân tộc Việt Nam đã sẵn sàng chịu đựng tất cả, chứ không chịu mất tự do”.

Bác Hồ trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến. Ảnh tư liệu
Bác Hồ trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến. Ảnh tư liệu

 Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã gửi thư kêu gọi các nước Anh, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Liên Xô và các thành viên của Liên Hiệp Quốc, trong đó nêu rõ thiện chí hòa bình và ý chí quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước và mong mỏi Liên Hiệp Quốc chấp nhận những yêu cầu chân chính của Việt Nam để vãn hồi hòa bình và để khôi phục lại những quyền cơ bản của Việt Nam là được thừa nhận độc lập dân tộc và thống nhất lãnh thổ’’. Người cũng đã liên tiếp gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên đến gặp gỡ với những người cầm đầu Pháp ở Đông Dương, tìm cách cứu vãn hòa bình, tránh đổ máu. Song mọi cố gắng của Việt Nam đều vô hiệu. Quân đội Pháp đã liên tiếp nổ súng, ném lựu đạn vào nhiều nơi ở Hà Nội trong các ngày 15, 16 tháng 12 năm 1946. Ngày 17-12- 1946, quân Pháp cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, đặc biệt chúng đã gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh. Ngày 18- 12- 1946, tướng Moóclie gửi cho ta hai tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự và chướng ngại vật trên các đường phố, đòi để chúng làm nhiệm vụ giữ gìn trị an ở Hà Nội. Chúng tuyên bố nếu các yêu cầu trên không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì chậm nhất vào sáng ngày 20-12-1946 quân Pháp sẽ chuyển sang hành động.

Đất nước ta đứng trước một tình thế khẩn cấp đòi hỏi Đảng, Nhà nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu phải có một sự lựa chọn lịch sử, phải kịp thời có một quyết định chiến lược để chuyển xoay vận nước đang lâm nguy. Ngày 18 và 19/12/1946, tại làng Vạn Phúc, Hà Đông, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định chủ trương phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước và đề ra đường lối, chủ trương kháng chiến của Đảng.

Vào hồi 20 giờ ngày 19 - 12 - 1946, quân dân Thủ đô Hà Nội đã nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc. Ngay trong đêm 19- 12- 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hoàn thành bản thảo và sáng 20 – 12 - 1946 Người đã đọc Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không? Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên? Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp để cứu nước.

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!

Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!

Kháng chiến thắng lợi muôn năm!

Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc ta đại đoàn kết đứng lên kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược.

Thủ đô Hà Nội, nơi có cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến, cũng là nơi đối phương đặt bộ chỉ huy xâm lược đã trở thành chiến trường chính. Sau đòn tiến công chủ động, đồng loạt và bất ngờ vào lúc 20 giờ ngày 19-12-1946, quân dân Thủ đô tiếp tục triển khai thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc. Trải qua 60 ngày đêm chiến đấu kiên cường, anh dũng, sáng tạo, quân dân Hà Nội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho cơ quan đầu não, tản cư được phần lớn nhân dân, đưa được hàng ngàn tấn máy móc, thiết bị công nghiệp ra An toàn khu; tiêu hao sinh lực địch, kìm chân chúng dài ngày để hậu phương có điều kiện tổ chức và triển khai thế trận chiến đấu lâu dài. Quân và dân các thành phố, thị xã khác cũng đã kịp thời đứng lên chiến đấu. Phối hợp với cuộc chiến đấu của quân và dân miền Bắc, quân và dân Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đã tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá kế hoạch bình định, kiềm chế không cho địch đưa lực lượng và tài sản chiếm được ở phía Nam ra đánh ở Trung và Bắc Bộ.

Sau cuộc tổng di chuyển lên các an toàn khu nhằm bảo toàn lực lượng, xây dựng thực lực để tiến hành kháng chiến trường kỳ, tháng 3- 1947, các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ, Quân đội, Mặt trận đã được chuyển lên Việt Bắc - Thủ đô của cuộc kháng chiến.

Quân Pháp mở cuộc hành quân lên Việt Bắc vào Thu - Đông 1947 nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt quân chủ lực của ta với ảo vọng mau chóng kết thúc chiến tranh nhưng đã bị thảm bại hoàn toàn sau 75 ngày đêm (từ 7- 10 đến 21-12-1947) chiến đấu ngoan cường của quân ta; chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của chúng bị phá sản. Thực dân Pháp buộc phải chuyển hướng sang “đánh kéo dài” với chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” và thực hiện chiến lược “chiến tranh tổng lực”. Chúng ta đã tiến hành phát triển dân quân, du kích, thành lập bộ đội địa phương, lập làng chiến đấu, khu chiến đấu, căn cứ du kích, đánh vận động bằng tiểu đoàn tập trung rồi tiến lên bằng trung đoàn dã chiến; biến hậu phương địch thành tiền phương của ta với các chiến dịch Đông Bắc, Sông Đà, Sông Thao; chiến dịch Hồ Chí Minh ở Tây Nguyên; chiến dịch Lê Lai ở Quảng Bình, Quảng Trị; chiến dịch Cầu Kè ở Nam Bộ... gây cho địch nhiều thiệt hại.

Năm 1950, ta chủ động mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một phần vùng biên giới, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Sau 29 ngày đêm chiến đấu kiên cường, chiến dịch Biên giới đã kết thúc thắng lợi, tạo chuyển biến cơ bản cho cuộc kháng chiến, ta nắm quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ. Giữa lúc đó, Mỹ tăng thêm viện trợ cho Pháp và can thiệp sâu hơn vào chiến tranh Đông Dương.

Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (2- 1951) xác định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là “tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập và thống nhất hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới”. Sau một loạt chiến dịch bản lề trên chiến trường chính Bắc Bộ và các chiến trường Trung, Nam Bộ, cuối cùng ta đã giành toàn thắng trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, kết thúc oanh liệt cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 - 1954 của quân và dân ta, tạo điều kiện thuận lợi cho đấu tranh ngoại giao, đi đến ký kết Hiệp định Giơnevơ. Cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ đấu tranh mới: thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc.

Phát huy tinh thần và ý chí quật khởi của Toàn quốc kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta đã anh dũng chiến đấu, tiếp tục tạo nên một kỳ tích lịch sử - đánh bại sự xâm lược của đế quốc Mỹ hùng mạnh, lập nên chiến thắng oai hùng nhất trong lịch sử Việt Nam, thống nhất đất nước, cả nước tiến lên CNXH.

65 năm đã trôi qua những tinh thần và ý chí quật khởi Toàn quốc kháng chiến luôn có ý nghĩa và sẽ mãi mãi là động lực tinh thần- ý chí quyết thắng đối với mỗi chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN ngày nay.

                                               Theo Tài liệu của Ban Tuyên giáo Trung ương

 

 

,
.
.
.