Tâm thức quê

Cập nhật lúc 10:09, Thứ Tư, 25/01/2012 (GMT+7)

(QBĐT) - Lâu lắm mới về quê ăn tết nên tôi bất ngờ khi thấy chú tôi bày biện la liệt đủ thứ trên bàn thờ nhưng không treo câu đối Tết hay những bộ tranh xuân-hạ-thu-đông như thuở nào. Chú tôi bảo "Anh đi lâu ngày về nên lạc hậu chuyện làng. Bây giờ ai chơi câu đối nữa".

Hóa ra thật. Làng tôi bây giờ thật khó tìm được những nhà chơi tranh Tết. Bàn thờ bày la liệt những hộp bánh quà xanh đỏ tím vàng sặc sỡ; rồi thì bia lon, xúc xích, toàn những thứ con cháu mua từ siêu thị gửi về làm quà.

Làng Lệ Sơn (Văn Hóa, Tuyên Hóa) quê tôi nằm dựa lưng vào 99 ngọn núi đá vôi, mặt hướng ra hạ nguồn sông Gianh. Thuở nhỏ, tôi không hiểu vì sao cái làng bé nhỏ, cứ đến mùa là các o, các dì lại dắt díu nhau lúi cúi nhảy tàu vào huyện Lệ Thủy mót lúa, đàn ông thì vượt hàng bao nhiêu ngọn núi cao chọc trời để đi hái trái mít rừng về băm nhỏ, phơi khô, hấp cơm ăn cho qua bữa, thế mà hàng trăm năm trước đã từng đứng đầu trong tám ngôi làng nổi danh văn vật nhất đất Quảng Bình (Sơn, Hà, Cảnh, Thổ, Văn, Võ, Cổ, Kim).

Lớn lên một chút, ba tôi mới giải thích rằng đúng là làng không người kiệt xuất, không di tích, không của ngon vật lạ nhưng từ xưa đã có trình độ dân trí rất cao. Mà thật, các cụ ở làng tôi hầu như tinh thông Tam tự kinh và Minh tâm bảo giám. Ngoại tôi ngày hai bữa xa xỉ nhất cũng chỉ có ruốc với đậu lạc, thế mà đọc Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm cứ làu làu như có bồ sách trong bụng. Trước Cách mạng tháng 8-1945, khi cả nước có tới 80% dân số mù chữ thì Lệ Sơn xem như đã hoàn toàn xóa nạn mù chữ.

Bến đò chợ Vang (Lệ Sơn) ngày Tết.
Bến đò chợ Vang (Lệ Sơn) ngày Tết.

Nhưng ấn tượng nhất với tôi nhất vẫn là khi xuân về tết đến. Năm nào cũng vậy, dù gặp năm đói kém đến mấy ba tôi cũng dành dụm ít tiền để bàn thờ gia tiên mới mẻ hẳn lên nhờ dăm đôi câu đối Tết, rồi thì những bộ tranh cá chép trông trăng hay mai tùng cúc trúc... Lớn lên, vào Huế học đại học, gặp phải những năm đói quay đói quắt nhưng cứ tết đến tôi lại bán suất gạo bao cấp ít ỏi để mua về cho ba tôi mấy bức tranh xuân. Ba tôi vui lắm.

Ký ức Tết làng trong tôi là ngọt lừ những cam voi cam sành, quýt, mít. Cứ chiều 30 Tết, nội bắt tôi lần lượt bưng đồ cúng tới hàng chục nhà, mỗi nhà là một thẻ nhang nhỏ, trái cam mọng nước và cút rượu trắng. Bây giờ thì vườn làng tôi khó mà tìm ra vườn nào còn cam. Lũ lụt bây giờ không còn đem phù sa về làm xanh cây trái nữa mà đúng là tai họa, càng lụt vườn càng nghèo kiệt. Ngày Tết, chợ cũng bán đầy cam đầy bưởi đấy nhưng là hàng đưa từ tận đẩu tận đâu về, nghe nói toàn là trái cây Trung Quốc.
Có điều gì đó đang chuyển dịch trong sâu thẳm làng tôi!

Suốt đời bôn ba mới làm được cái nhà tươm tất. Nhà mới chưa được bao lăm thì anh tôi mất, rồi chị cũng theo anh. Nhà có đến sáu bảy đứa con, đứa ở Đà Nẵng, đứa vô Sài Gòn, hỏi mãi không đứa nào chịu về quê thành ra cái nhà hoành tráng một đời anh chị tôi ky cóp bỗng như cái nhà hoang, xóm giềng thương lâu lâu ghé vào nhang khói. Được mấy ngày Tết, con cái dắt díu nhau về hoành tráng ba bữa rồi kéo nhau đi hết.

Làng tôi bây giờ nhiều nhà đến Tết họa chăng mới có tiếng người. Nghĩ mà xót. Chỉ trừ thuở đói kém kinh hoàng năm 1945 mới có chuyện bỏ làng dắt díu nhau qua Lào, Thái Lan làm ăn chứ thời bom Mỹ dội suốt ngày như thế mà dân quê tôi vẫn bám trụ bền bỉ. Bây giờ thì dân làng tôi đã không còn lạ gì chuyện thu hoạch lúa tấn, hộ nghèo còn nhiều nhưng cảnh cơm độn đã thành dĩ vãng. Suốt đầu làng đến cuối làng đường sá đã bê tông hóa, rồi thì điện về tận nhà; xe máy chạy đầy làng, thế mà con em dắt díu nhau đi hết nên làng toàn ông già bà lão. Ít thanh niên nên làng buồn hẳn. Cảnh ngày xuân hào hứng với đua thuyền, đá bóng nhạt dần.

Chợ Vang ngày Tết.
Chợ Vang ngày Tết.

Thằng cháu tôi phân trần: "Ngày xưa cả nhà làm được vài tạ lúa một năm đã là mừng. Bây giờ làm ra lúa tấn đấy nhưng bán ra chỉ vài triệu bạc. Cả năm xoay xở tất tần tật nhờ vào chừng ấy. Đi làm ăn xa khổ thật nhưng có tiền mặt vẫn sướng hơn".

Cháu tôi có lý. Mấy năm nó ở nhà Tết đến chỉ biết trông chờ vào bán con heo, dăm tạ lúa nên đến cái áo mới cũng không dám mua. Bây giờ anh em rủ nhau vào Nam làm ăn, khổ vẫn hoàn khổ nhưng Tết đến đứa nào cũng dắt lưng dăm triệu bạc, kéo nhau về quê mặt cứ hơn hớn. Khổ cái là đưa cho bố mẹ phòng thân tuổi già thì ít mà vung vẩy để hoành tráng thì nhiều nên cứ Tết đến là cái làng quê nghèo khó này bỗng có lắm anh hóa chơi sang.

Thằng út con thím tôi về quê ăn Tết với một chiếc wave Trung Quốc. Về đến quê, hắn vênh váo cưỡi xe lượn khắp làng, đến chỗ nào cũng kiếm cớ uống vài lon bia, nói năng trên trời dưới đất cứ như ở miền Nam hắn là dân chơi thứ thiệt. Mấy ai biết hắn làm công nhân trong một nhà máy giày da ở Bình Dương, công việc tối tăm mày mặt lắm khi suốt tuần không nhìn thấy mặt trời mà thu nhập cả tháng chưa tới 3 triệu bạc. "Về quê phải hoành tráng chứ không người ta khinh chú ơi!". Ừ thì hoành tráng. Hết ba ngày Tết, mẹ hắn phải bán đi cả tạ đậu xanh để thằng con trai hoành tráng đủ tiền vô Nam.

Có điều gì đó đang chuyển dịch trong sâu thẳm làng tôi!

Lương Duy Cường

 

,
.
.
.