.

Những điểm mới cơ bản trong Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi)

Thứ Tư, 04/02/2015, 12:33 [GMT+7]

(QBĐT) - Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) (sửa đổi) đã được Quốc hội nước cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông vào ngày 20-11-2014 với 71,43% đại biểu tán thành, Luật này được áp dụng từ ngày 1-1-2018 và có một số điểm mới sau đây:

Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) bổ sung thêm 2 đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc là người có hợp đồng lao động 1-3 tháng và người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn. Quy định người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, phường, thị trấn tham gia BHXH bắt buộc có sự hỗ trợ của Nhà nước trong phạm vi 2 chế độ hưu trí và tử tuất, trong đó Nhà nước đóng 14%, người lao động đóng 8% nhằm góp phần bảo đảm an sinh và thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với đội ngũ cán bộ ở cơ sở.

Để mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện (khoản 1 Điều 87), Luật quy định mang tính nguyên tắc việc nhà nước có chính sách hỗ trợ cho nông dân, lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, đồng thời giao cho Chính phủ căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước từng thời kỳ để quyết định mức hỗ trợ, nhóm đối tượng hỗ trợ và thời điểm hỗ trợ cho phù hợp.

Luật mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện theo hướng không khống chế tuổi tham gia, hạ mức sàn thu nhập làm căn cứ đóng để phù hợp với khả năng của người tham gia, đa dạng các hình thức đóng, có chính sách hỗ trợ tiền đóng nhằm khuyến khích người dân tham gia BHXH tự nguyện. Bổ sung quy định về mức đóng BHXH tự nguyện do người lao động tự lựa chọn, người tham gia BHXH tự nguyện có thể chọn nhiều hình thức đóng bảo hiểm như:  Hàng tháng;  hàng quý;  6 tháng một lần;  một năm một lần; một lần cho nhiều năm về sau với mức thấp hơn mức đóng hằng tháng hoặc một lần cho những năm còn thiếu với mức cao hơn mức đóng hằng tháng so với quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 87.

Về điều kiện hưởng lương hưu (Điều 54): Luật BHXH bổ sung thêm lao động nữ là người hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn tham gia BHXH có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng BHXH và đủ 55 tuổi thì được hưởng lương hưu (khoản 3 điều 54).

Đối với nhóm lao động làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, Luật BHXH đã quy định nhóm lao động nữ được nghỉ hưu ở độ tuổi từ 50 tuổi đến 55 tuổi, trường hợp bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì nghỉ hưu khi đủ 46 tuổi nhưng phải có đủ 20 năm đóng BHXH, tuy khiên khi mức lương hưu thấp hơn mức lương cơ sở thì họ sẽ được điều chỉnh bằng mức lương cơ sở (điểm b,c khoản 1 Điều 54, khoản 1 Điều 55 và khoản 4 Điều 56).

Về điều chỉnh mức hưởng lương hưu hàng tháng (Điều 56): Theo công thức tính lương hưu cũ có 15 năm Luật mới, sửa đổi theo hướng tăng dần số năm đóng. Theo đó, đối với lao động nam từ năm 2018 trở đi phải có 16 năm đóng BHXH mới được hưởng tương đương với 45% mức lương bình quân đóng BHXH; Năm 2019 là 17 năm; năm 2020 là 18 năm; năm 2021 là 19 năm và từ năm 2022 trở đi là 20 năm đóng BHXH mới bằng được hưởng 45% mức bình quân tiền lương. Đối với lao động nữ từ năm 2018 có 15 năm đóng BHXH vẫn tính bằng 45% mức lương bình quân đóng BHXH, nhưng sau đó cứ mỗi năm đóng BHXH tiếp theo được tính cộng thêm bằng 2% thay vì 3% như hiện nay.

Việc thực hiện quy định này đồng bộ với lộ trình điều chỉnh mức đóng BHXH (theo Điều 90 Bộ luật Lao động) để bảo đảm tiền lương hưu người lao động thực nhận không bị sụt giảm nhiều so với trước. Mặc khác, do tuổi nghỉ hưu của nam, nữ chênh lệch 5 năm nên cần phải bảo đảm bình đẳng giới khi điều chỉnh chính sách này thông qua việc xây dựng lộ trình nâng số năm đóng BHXH của nam giới từ 15 năm lên 20 năm để đạt 45% mức bình quân tiền lương tháng tính lương hưu. Bên cạnh đó, mức bình quân lương hàng tháng để tính lương hưu của khu vực công cũng được điều chỉnh theo lộ trình, từ 1-1-2025 trở đi tính bình quân của toàn bộ thời gian.

Về tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc (Điều 89): Quy định từ ngày 1-1-2018 trở đi, tiền lương tháng đóng BHXH là mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác ghi trên hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động.

Về chi phí quản lý BHXH: Khoản 1 Điều 90 đã bổ sung các nội dung cụ thể của chi phí quản lý, đồng thời, chỉnh lý quy định về chi phí quản lý BHXH hàng năm được trích từ tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ và định kỳ 3 năm một lần. Luật cũng đã chỉnh lý quy định về nguyên tắc đầu tư từ quỹ BHXH (Điều 91)

Về chế độ thai sản: Luật BHXH (sửa đổi) có một số quy định mới về chế độ thai sản, theo đó người lao động được hưởng chế độ thai sản nếu là lao động nữ mang thai, sinh con, mang thai hộ và nhờ mang thai hộ; người lao động nhận con nuôi dưới 6 tháng; và lao động nam đang đóng BHXH có vợ sinh con. Lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản trước và sau khi sinh con là 6 tháng. Trường hợp sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm một tháng. Ngoài ra, quy định lao động nữ sinh con đi làm sau khi đã nghỉ chế độ ít nhất 4 tháng, đồng bộ với quy định của Bộ luật Lao động nhằm bảo đảm cho sức khỏe của lao động nữ và con của họ.

Bổ sung quy định lao động nam được nghỉ việc mười ngày làm việc khi vợ sinh đôi, trường hợp vợ sinh ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm ba ngày làm việc; trường hợp vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật thì được nghỉ mười bốn ngày làm việc tại điểm c, d khoản 2 Điều 34; nâng thời gian nghỉ việc của người mẹ từ 3 tháng lên 4 tháng và từ 1 tháng lên 2 tháng tại khoản 3 Điều 34.

Luật BHXH sửa đổi quy định cơ quan BHXH được thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp nhằm khắc phục tình trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH của doanh nghiệp. Luật đã bổ sung quy định ủy quyền cấp phó thực hiện xử phạt vi phạm hành chính tại khoản 2 Điều 121 để bảo đảm đồng bộ với Luật Xử lý vi phạm hành chính. 

Ngoài những điểm đổi mới nổi bật như trên, Luật BHXH (sửa đổi) còn có một số quy định mới khác như: Quy định quyền khởi kiện của tổ chức công đoàn đối với các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động (khoản 1 Điều 14) như hành vi trốn đóng, nợ đọng, chiếm dụng BHXH của doanh nghiệp. Sửa đổi quy định về hồ sơ, thủ tục và rút ngắn thời gian thực hiện, giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội, lộ trình ứng dụng công nghệ thông tin trong cải cách thủ tục BHXH để tạo thuận tiện cho người tham gia BHXH.

Quyền, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc tuyên truyền, vận động hội viên, nhân dân tham gia BHXH; đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động tham gia BHXH theo quy định của pháp luật; Luật sửa đổi chỉnh lý lại hành vi cấm tại khoản 1 Điều 17. Quy định thêm tại khoản 1, Điều 28 mức hưởng chế độ ốm đau, trường hợp người lao động mới bắt đầu làm việc hoặc người lao động trước đó đã có thời gian đóng BHXH sau đó bị gián đoạn thời gian làm việc mà phải nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau ngay trong tháng đầu tiên trở lại làm việc thì mức hưởng bằng 75% mức tiền lương đóng BHXH của chính tháng đó; người lao động nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau từ quỹ BHXH hoặc nghỉ việc không hưởng tiền lương từ mười bốn ngày làm việc trở lên trong tháng thì mức hưởng bằng 75% mức tiền lương đóng BHXH của tháng lương cuối cùng trước khi bị gián đoạn thời gian làm việc.

Luật sửa đổi nâng mức hưởng chế độ ốm đau từ 45% lên 50% mức tiền lương đóng BHXH tại điểm c khoản 2 Điều 28. Đối với chế độ tử tuất, tại mục 5 Chế độ tử tuất của Luật XHBH (sửa đổi) đã bổ sung quy định hưởng theo mức lương cơ sở và cho phép thân nhân người lao động được lựa chọn hưởng trợ cấp tuất hàng tháng hoặc trợ cấp tuất một lần. Đồng thời, tăng mức trợ cấp tuất một lần đối với trường hợp người lao động đang đóng hoặc đang bảo lưu thời gian đóng chết, từ 1,5 đến 2 tháng cho mỗi năm đóng BHXH từ năm 2014 trở đi.

Nhìn chung, việc thực hiện các chính sách mới trong Luật BHXH (sửa đổi) sẽ góp phần tăng thời gian cân bằng quỹ so với dự báo dựa trên các chính sách hiện hành.

Nguyễn Ngọc Phương
Tỉnh uỷ viên, Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Bình