Họ ngã xuống như người lính
(QBĐT) - Ở Việt Nam có một đội ngũ nhà văn chiến sĩ được hình thành và phát triển trong các cuộc chiến tranh giải phóng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Đấy chính là “binh chủng đặc biệt”, vừa cầm súng, vừa cầm bút, đồng hành cùng chiến sĩ và nhân dân chống giặc ngoại xâm mang lại độc lập, tự do cho dân tộc, hòa bình, thống nhất cho non sông. Là người lính họ cầm súng, là nhà văn họ cầm bút; súng và bút làm nên những chiến công và tác phẩm được nhân dân ghi nhận. Tháng 7 linh thiêng, trong sự tri ân những người đã ngã xuống vì Tổ quốc chúng ta không thể quên các nhà văn liệt sỹ.
Số phận dân tộc quá nghiệt ngã, đất nước bị cuốn vào các cuộc chiến tranh vệ quốc dài lâu và vô cùng khốc liệt với những kẻ thù to lớn, giàu có gấp ta nhiều lần. Mấy cuộc chiến tranh nối tiếp nhau, gian khổ chồng chất gian khổ, đau thương chồng chất đau thương. Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Hai mươi mốt năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Ngày cuối cùng tháng 4/1975, khúc khải hoàn chiến thắng lừng vang nhưng rồi nghiệt ngã thay, chiến tranh vẫn chưa chấm dứt khi biên giới, hải đảo bị xâm lấn, quấy phá. Thêm nữa, có đất nước láng giềng trong nguy cơ bị diệt chủng kêu gọi ta giải cứu. Những đoàn quân nối nhau ra trận.
Bao nhiêu kỳ tích chiến công cũng là bấy nhiêu tổn thất, mất mát. Lớp lớp người hành quân đánh giặc, lớp lớp người ngã xuống; bia mộ liệt sỹ điệp trùng từ Bắc vào Nam, từ rừng xuống biển; kể sao hết những bến nước thành bến chia ly, bến không chồng… Những trang văn ngợi ca khí phách, sự hiến dâng vô tận của những người con yêu nước trên non sông này. Những trang văn đẫm nước mắt sẻ chia nỗi mất mát, đau thương của dân tộc thời hậu chiến. Nhân văn thấm sâu vào từng trang sách. Khát vọng yêu thương và hạnh phúc tỏa sáng trong nhiều tác phẩm.
Chuyển động của văn học Việt Nam sau chiến tranh hướng tới sự thật của những cuộc đọ sức mang tầm vóc thời đại trong quá khứ và những điều cao cả, tốt đẹp của truyền thống, của nhân loại. Hiện tại và quá khứ cùng song hành, không hề loại trừ nhau, chính nhờ thế mà những giá trị đích thực của văn học kháng chiến vẫn được bảo tồn và tôn vinh. Trong sự tôn vinh dòng văn học kháng chiến và bảo vệ Tổ quốc có sự kính trọng, tri ân các nhà văn liệt sỹ. Đấy là đạo lý dân tộc, không thể nghĩ và làm khác được.
Lòng yêu nước và sự xả thân vì Tổ quốc đó là điều đáng nói nhất về những nhà văn liệt sỹ của chúng ta. Tác phẩm của họ cũng thấm đượm tinh thần yêu nước và sự hiến dâng cao cả. Cuộc đời của các nhà văn liệt sỹ là những trang sách đẹp, phần giá trị bất tử để lại cho chúng ta hôm nay. Giá trị cuộc đời gắn liền với giá trị tác phẩm, họ viết như đã sống, sống như văn thơ mình làm ra.
Chúng ta đọc Nam Cao, càng cảm phục tài năng của người viết nên tác phẩm Chí Phèo lừng danh bao nhiêu càng muốn chia sẻ với những gửi gắm của ông trong Đôi mắt bấy nhiêu. Có thể Đôi mắt không thể ngang tầm với Chí Phèo về giá trị nghệ thuật nhưng qua truyện ngắn hay viết trong thời kháng chiến chống Pháp đó chúng ta nhận rõ được chân dung một nhà văn chiến sĩ. Khi trở thành nhà văn cách mạng, Nam Cao tâm niệm “sống đã rồi hãy viết”; sống là cầm súng chiến đấu giải phóng dân tộc và theo ông đấy là bước sửa soạn cho nghệ thuật vươn tới một tầm cao hơn. Thật tiếc, cuối tháng 11/1951, trên đường đi công tác vào vùng địch tạm chiếm, Nam Cao đã hy sinh ngay chính trên quê hương mình.
Văn chính là người. Với các nhà văn liệt sỹ thì điều này thể hiện rất rõ. Đọc lại những tác phẩm của họ từ Hoàng Lộc, Trần Đăng thời chống Pháp đến Nguyễn Mỹ, Lê Anh Xuân, Nguyễn Trọng Định, Vũ Đình Văn, Chu Cẩm Phong, Nguyễn Thi… của thời chống Mỹ ta sẽ không ngạc nhiên điều vừa nói. Nhà thơ liệt sỹ Hoàng Lộc đã để lại cho đời thi phẩm Viếng bạn nhiều xúc động. Trần Đăng có truyện ký từng đi vào sách giáo khoa Một lần đến thủ đô…
Với Nguyễn Mỹ, chúng ta không thể không nhắc tới bài thơ Cuộc chia ly màu đỏ gây ấn tượng mạnh mẽ ở miền Bắc Việt Nam vào thập kỷ 60. Bài thơ mới lạ được cộng hưởng từ không khí hào hùng cả nước ra trận thời đó; những người con gái con trai “Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”. Cuộc chia ly có những giọt nước mắt long lanh nhưng tuyệt nhiên không hề u ám, ảm đảm: Chiếc áo đỏ rực như than lửa/Cháy không nguôi trước cảnh chia ly/Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia/Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy…
Nhà thơ liệt sỹ Lê Anh Xuân xứng đáng được gọi là một thi sĩ anh hùng của thời chống Mỹ. Tình yêu quê hương, đất nước trong thơ Lê Anh Xuân chân chất, mộc mạc mà sâu lắng. Chính từ đó mà Lê Anh Xuân mới tiếp cận được hiện thực bi tráng của cuộc chiến đấu anh hùng để tạc dựng nên Dáng đứng Việt Nam bất tử, dáng đứng Tổ quốc bay lên bát ngát những mùa xuân thông qua hình tượng chiến sĩ giải phóng quân trong mùa xuân 1968: Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất/Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng/Và anh chết trong khi đang đứng bắn/Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng..
Trong thế hệ nhà văn đàn anh ở Văn nghệ Quân đội có Nguyễn Thi (Nguyễn Ngọc Tấn), một tên tuổi sáng ngời thời chống Mỹ cứu nước. Nhà thơ Thanh Tịnh khi còn sống có lần kể: “Đầu năm 1957, trong buổi đầu phân phòng làm việc, anh Nguyễn Ngọc Tấn tự nhiên gọi tôi đến phòng anh và chỉ một dòng chữ viết bằng mực đỏ phía trên cửa sổ tròn rồi hỏi: “Dòng chữ này nghĩa là gì thế?” Tôi đọc rồi nói: “Tiếng Pháp, nghĩa là Adieu Hà Nội! Nghĩa là Vĩnh biệt Hà Nội! Anh Nguyễn Ngọc Tấn nói: “Thôi cứ để đấy đừng xóa, ta chấp nhận lời chào não nùng của nó”. Cuối mùa xuân năm 1968, được tin anh Nguyễn Ngọc Tấn hy sinh tôi buồn quá đến sững sờ, ngơ ngác không thiết ăn uống. Ngay chiều hôm ấy, tôi lẳng lặng đi vào phòng cũ của anh và nhìn lên phía trên cửa sổ tròn. Tôi giật mình, dòng chữ Adieu Hà Nội! vẫn còn. Bên dưới là dòng chữ của anh dịch câu trên viết đậm nét Xin vĩnh biệt Hà Nội".
Lẽ nào, Nguyễn Ngọc Tấn-Nguyễn Thi, nhà văn tài năng ấy đã tiên cảm được số phận của mình. Anh là một trong những nhà văn đầu tiên của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, từ giữa năm 1962 đã vượt dãy Trường Sơn vào chiến trường miền Nam. Nhà văn Nguyễn Thi đã cùng với những chiến sĩ giải phóng quân chiến đấu anh dũng và ngã xuống trên đường phố Sài Gòn trong Tết Mậu Thân 1968 sau khi để lại cho chúng ta những truyện ngắn trong trẻo, đượm chất nhân văn, như: Trăng sáng, Đôi bạn và một truyện ký dài Người mẹ cầm súng với câu nói của nhân vật Út Tịch như tuyên ngôn của người yêu nước: Còn giặc, còn cái lai quần cũng đánh…
Mỗi cuộc đời, mỗi chặng chữ của các nhà văn liệt sỹ luôn mang gợi cho chúng ta nhiều cảm xúc và suy ngẫm đáng quý. Đó là sống và viết như thế nào để có ích cho Tổ quốc và nhân dân. Thời nào cũng vậy, văn chương gắn với cuộc sống, gắn với đất nước và nhân dân thật đáng nâng niu, trân trọng. Nghĩ về các nhà văn liệt sỹ, tôi luôn thấy các anh chị đã sống, chiến đấu và ngã xuống như những người lính dũng cảm nhất.
Nguyễn Hữu Quý