(QBĐT) - Tinh thần quan tâm thường trực văn chương cùng thời là nét ưu trội của ngòi bút phê bình Hoàng Thụy Anh. “Sức mạnh của vết thương” là tập tiểu luận-phê bình thứ sáu, xuất bản trong vòng 11 năm (2010-2021) của chị. Tác giả được văn giới đánh giá là một trong mấy cây bút trụ cột của thế hệ 7X, 8X viết lý luận, phê bình văn học, nổi lên trên văn đàn trong vòng một thập niên vừa qua (cùng Nguyễn Hoài Nam, Nguyễn Thanh Tâm, Hoàng Đăng Khoa, Đoàn Ánh Dương, Trần Thiện Khanh, Phan Tuấn Anh, Thái Phan Vàng Anh, Đỗ Anh Vũ,...).
Hoàng Thụy Anh cũng đã từng có duyên nợ với Nàng thơ (tập thơ “Người đàn bà sinh ra từ mưa”, năm 2017, đã tạo được hấp lực với công chúng ngày nay vốn vừa thông minh, vừa khó tính không mấy mặn mà với thơ). Cũng không thể nói ngay rằng, Hoàng Thụy Anh chỉ “đi ngang qua” thơ, dù cho viết lý luận, phê bình mới là sở trường của cây bút này. Độc giả tinh tường nhận ra Hoàng Thụy Anh còn nhiều “dan díu” với Nàng thơ. Chỉ có điều không ai nói trước được, bao giờ thì nữ sỹ quay lại với thơ như chặng cuối cùng của nghiệp cầm bút vinh quang thì ít, nhọc nhằn thì có thừa. Tài năng và danh phận trong lĩnh vực này không mấy khi song hành, suôn sẻ. Đôi khi đầy rẫy những nghịch lý.
Tinh thần quan tâm thường trực văn chương cùng thời ở ngọn bút Hoàng Thụy Anh là nét ưu trội. Ai đó nói vui, nhưng thấu tình đạt lý rằng, viết lý luận phê bình như Hoàng Thụy Anh không khi nào sợ rơi vào “học phiệt”. Tôi quan sát thấy, người viết có cái tâm thế tác nghiệp “bấu chặt” đời sống văn chương Việt Nam đương đại vốn mang đặc điểm ngày càng trở nên phức tạp hơn trong sự phong phú của nó so với thời kỳ cách mạng và chiến tranh (1945-1975), bắt sang cả thời kỳ “quán tính” của văn học (1975-1985).
Trong số 6 tập sách tiểu luận-phê bình đã xuất bản, chỉ có hai trường hợp Hoàng Thụy Anh đặc biệt ưu ái “thâm canh” đối tượng nghiên cứu: “Thơ Hoàng Vũ Thuật nhìn từ thi pháp học của Roman Jakobson” (chuyên luận, năm 2010) và “Thơ Hồ Thế Hà & giấc mơ cỏ hát” (chuyên luận, năm 2020). 4 tập còn lại, tác giả đã cố gắng lập một “lược đồ chữ” phân bổ đều các vùng miền, các thế hệ, các phong cách, các thể loại trên cùng một lãnh thổ có truyền thống văn hiến-văn hóa-văn chương.
Hoàng Thụy Anh
Mở rộng, cập nhật nhưng không có nghĩa phân tán, thiếu đào sâu sự viết có thể coi là nỗ lực tối đa của Hoàng Thụy Anh khi đồng nghiệp đôi lúc cũng nhận ra chị phải “rướn” lên cùng ngòi bút vì còn biết bao nhiêu trở lực khác gây khó với tác giả khi muốn toàn tâm toàn ý cho nghiệp văn.
Cũng không có gì lạ, bởi thời nào cũng vậy và chân trời nào cũng vậy, cơm áo không đùa với khách thơ không chỉ là câu nói vui đầu cửa miệng, mà là câu chuyện có tính hiện sinh, thực tiễn. Trong một bài viết về “Phê bình văn học & Ý thức cái khác” (tiểu luận-phê bình, NXB Hội Nhà văn, năm 2018 ) của Hoàng Thụy Anh, tôi có nhận xét: Chỉ cần mười cây bút viết lý luận, phê bình như Hoàng Thụy Anh thì diện mạo văn chương Việt Nam đương đại sẽ được “thâu tóm” kịp thời, đầy đủ. Tôi không nghĩ mình quá lời (!?).
Sự lựa chọn đối tượng phê bình, theo tôi, cũng là dấu chỉ phản ánh tinh thần viết “bấu chặt” thực tiễn văn chương cùng thời của Hoàng Thụy Anh. Trong tập tiểu luận-phê bình thứ sáu “Sức mạnh của vết thương”, Hoàng Thụy Anh đã viết về những đồng nghiệp văn chương nào? Sở dĩ tôi đặt câu hỏi như thế vì nhớ kỹ một chỉ dẫn nghề nghiệp của nhà văn Hoài Thanh trong công việc bình thơ: Trước tiên phải xem anh ta chọn tác giả nào, bài thơ nào và hơn thế câu thơ nào để “đặt lên bàn cân” khi viết. 24 bài viết trong tập sách mới của Hoàng Thụy Anh “chạm” tới 24 tác giả đang có nhiều độc giả cả trong và ngoài nước quan tâm, như: Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Linh Khiếu, Nguyễn Quang Lập, Trương Anh Tú, Nguyễn Văn Hùng, Hữu Phương, Trần Quang Đạo, Văn Thành Lê, Hồ Minh Tâm, Mai Nam Thắng, Nguyễn Việt Chiến, Khét, Thy Nguyên, Niê Thanh Mai, Trương Anh Quốc, Bảo Thương, Đỗ Bích Thúy, Trần Nhã Thụy, Trần Quỳnh Nga, Hương Giang, Nguyễn Hương Duyên, Nguyễn Văn Học, Nguyễn Thị Lê Na, Lữ Mai.
Thống kê cho thấy, Hoàng Thụy Anh viết phê bình quan tâm đến: Thơ (11 tác giả), văn xuôi (10 tác giả), lý luận, phê bình (3 tác giả). Sự lựa chọn đối tượng phê bình không mang tính ngẫu nhiên, ngẫu hứng. Trái lại có tính mục đích, nói khác là có chủ đích. Một bài viết có số trang đầy đặn (30 trang) khi mượn một vài ý tưởng trong cuốn sách “Văn học Việt Nam thời toàn cầu hóa” của Nguyễn Hưng Quốc để luận bàn về thơ Nguyễn Quang Thiều - “Những chuyển động của hiện thực tinh thần”, được viết một cách công phu và tâm huyết là cách “lấy ngoài nói trong”. Cách này chính là gián tiếp Hoàng Thụy Anh thêm một lần “kê cao” thơ Nguyễn Quang Thiều khi mượn lời người khác.
Thiết nghĩ, nếu Hoàng Thụy Anh không “vay mượn” của ai cả, cứ suy tôn thơ hay của bất kỳ tác giả nào, theo c