.

Văn học Việt Nam 15 năm qua, một góc nhìn

Thứ Ba, 11/02/2014, 09:58 [GMT+7]

(QBĐT) - Mười lăm năm (1998-2013) đã đi qua kể từ khi Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII ra Nghị quyết 5 Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong một thập kỷ rưỡi qua, giữa những biến động ào ạt và phức tạp của cuộc sống, văn học nước nhà đã có những "quẫy đạp" với hy vọng tạo nên những tác phẩm mới xứng tầm thời đại. Các nhà văn chân chính trong lao động sáng tạo nghệ thuật dù là đơn lẻ cô độc như họ thường nhận, ở đâu và viết cái gì vẫn hồi hướng tâm - tài của mình về dân tộc và nhân loại. Điểm chung, hay nói chính xác hơn là sự đồng thuận trong tư tưởng và tình cảm của các nhà văn với Nghị quyết Trung ương 5 là ở đó.

Không khí sáng tác văn học cởi mở là điều dễ thấy nhất trong mười lăm năm qua. Có lẽ, chưa có thời điểm nào số lượng tác giả, tác phẩm đông và nhiều như thế. Đây cũng là quãng thời gian ở Việt Nam có nhiều trường phái, trào lưu, phương pháp sáng tác văn học được thực hành nhất từ trước tới nay. Hai đặc điểm trên hầu như xuyên suốt trong mười lăm năm qua và nó chưa có dấu hiệu dừng lại. Đội ngũ người viết văn chuyên nghiệp và nghiệp dư như cách ta thường gọi lên tới hàng vạn. Văn chương hàn lâm xen kẽ với văn chương bình dân, chưa biết ai chiếm lĩnh được bạn đọc nhiều hơn ai.

Phải thừa nhận rằng trong mười lăm năm qua trình độ cảm thụ văn chương của người viết, người đọc tăng lên. Hình như, người ta đã vượt qua được những ngộ nhận, ấu trĩ trong nhận thức về sáng tạo văn học trước đây để làm ra những tác phẩm gần với đời hơn. Cái chân-thiện-mỹ không bị trình bày thể hiện theo kiểu khô cứng, hẹp hòi đầy tính giáo huấn nữa. Quá khứ và hiện tại cung cấp phôi liệu cho nhà văn; từ sự bộn bề ngang dọc của các "vỉa quặng" này, nhiều tác phẩm sinh ra mang hơi thở cuộc sống nóng hổi. Tuy mức độ thành công khác nhau và không nhiều lắm nhưng chúng ta cũng có thể kể tên một số tác giả, tác phẩm như thế.

Về văn xuôi, nối tiếp tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, truyện ngắn Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh... thời kỳ bắt đầu đổi mới, chúng ta có thêm các tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến không chồng của Dương Hướng, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân, Lính trận của Trung Trung Đỉnh, Minh sư của Thái Bá Lợi, Bến đò xưa lặng lẽ của Xuân Đức...đặc biệt tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh và truyện vừa Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư. Theo cảm nhận của tôi thì Hồ Quý Ly và Cánh đồng bất tận là hai tác phẩm hay nhất của văn xuôi nước ta trong mười lăm năm qua.

Một tập thơ viết về mẹ của Nguyễn Ah Trí.                         Ảnh: P.V
Một tập thơ viết về mẹ của Nguyễn Anh Trí. Ảnh: P.V

Thơ nhiều ồn ào tranh cãi nhưng ít thành tựu, mười lăm năm qua không có tập thơ nào thực sự chinh phục được bạn đọc ở chất lượng nghệ thuật cao. Những tập thơ được giải hàng năm của Hội Nhà văn Việt Nam hay một số hội địa phương cũng nằm trong tình trạng đó, chưa tạo ra được sự đồng thuận cao trong dư luận, được khen cũng lắm bị chê cũng nhiều.

Nhìn chung, văn học trong mười lăm năm qua được tạo lập trên cái nền khá vững bởi hàng năm vẫn có những tác phẩm "đọc được" của các thế hệ tác giả. Thế hệ nhà văn kháng chiến với những tên tuổi đã được định danh vững chắc trong lòng bạn đọc vẫn chưa hết duyên sáng tác đã có những tác phẩm mới đóng góp cho nền văn học nước nhà như Tô Hoài, Ma Văn Kháng, Đỗ Chu, Hữu Thỉnh, Tô Nhuận Vỹ, Xuân Đức, Nguyễn Chí Trung, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Đức Mậu, Anh Ngọc, Chu Lai, Thái Bá Lợi, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Nhật Ánh, Trung Trung Đỉnh, Lê Minh Khuê, Thanh Thảo, Lê Thị Mây...

Thế hệ nhà văn xuất hiện ngay sau năm 1975 cũng đóng góp vào những tên tuổi quen thuộc như Nguyễn Quang Thiều, Hồ Anh Thái, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Việt Chiến, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Nguyễn Việt Hà, Trần Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Võ Thị Xuân Hà, Y Ban... Bạn đọc dần dà biết tới những nhà văn trẻ của thời đổi mới như Nguyễn Ngọc Tư, Phan Thị Vàng Anh,Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Đình Tú, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp... của lớp 7X và gần đây là những Tống Ngọc Hân, Hoàng Hải Lâm, Hoàng Chiến Thắng... của lớp 8X, 9X.

Văn học trong một thập kỷ rưỡi qua vừa hướng tới việc phản ánh hiện thực cuộc sống đương thời với những xung đột gay gắt, những hoàn cảnh chênh vênh, những bi kịch éo le của thời hậu chiến khi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần dần được xác lập như xu hướng tất yếu ở nước ta trong thời gian dài, vừa quay lại xem xét, mô tả lịch sử (sự kiện và nhân vật) dưới góc nhìn hôm nay. Đề tài lịch sử được một số nhà văn quan tâm cùng với dòng văn học viết về chiến tranh chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược vẫn được thông chảy. Tuy nhiên, văn học không có nhân vật trung tâm (người lính) và đề tài chủ yếu (đánh giặc) như thời kháng chiến nữa.

Nhân vật của văn học nước ta trong mười lăm năm qua là Con người; con người của dĩ vãng và hiện tại với những niềm vui và nỗi buồn, đớn đau và khát vọng vô tận. Con người bị ném vào bão lốc giông gió của thời cuộc, bị ràng rịt trói buộc bởi muôn vàn mối quan hệ phức hợp. Thân phận con người là mối quan tâm hàng đầu và xuyên suốt của các nhà văn. Dù viết về ai và bằng thể loại gì, phương pháp nào thì cũng là để nói tới thân phận con người.

Với văn xuôi, tôi thấy khá ổn định trong nghệ thuật trình bày. Bạn đọc dễ dàng chấp nhận các phương pháp sáng tác hiện thực và hiện thực huyền ảo, các dạng tiểu thuyết, truyện ngắn có cốt truyện hay không có cốt truyện... miễn là hay.

Thơ ồn ào và muôn hình muôn vẻ hơn với nhiều trường phái, trào lưu sáng tác truyền thống, hiện đại và hậu hiện đại...Người ta không ngần ngại "nhập khẩu" những trường phái thơ từ phương Tây vào nước ta, tung hô khá ầm ĩ và lăng xê cho một số tác giả đi theo hướng này. Cụm từ "cách tân, đổi mới thơ" hay to tát hơn là "mở ra cuộc cách mạng thơ" được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trên các phương tiện thông tin đại chúng. Kết quả thì sao, chưa có "cuộc cách mạng thi ca" nào nổ ra nếu không muốn nói là thơ Việt đang ở trong tình trạng lộn xộn, hỗn mang, hay dở khó nhận biết. Dạng thơ đề cao cái tục, cái nhục cảm tầm thường, thơ chửi đổng... xuất hiện đó đây và không phải không có người cổ súy hoan hô nó như là một hiện tượng "làm mới" thơ ca Việt.

Với cuộc sống có nhiều chất liệu và "vỉa quặng" như thế, với không khí sáng tác khá cởi mở, tại sao văn học Việt Nam hiện nay vắng bóng những tác phẩm đỉnh cao? Theo tôi, sự bất ổn về tâm và sự bất tụ về tài là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới nền văn học nước nhà thiếu đỉnh. Có vẻ như còn rất nhiều loay hoay trong định hướng viết cái gì và viết như thế nào trong mỗi nhà văn. Trung thành với lối viết cũ sẽ có nguy cơ bị lạc hậu về phương pháp thể hiện, lặp lại mình. Đổi mới thì phải thế nào đây để không bị mắc phải cái lỗi bắt chước, lai căng. Không phải không có nhà văn đang băn khoăn phân vân giữa đôi bờ truyền thống và hiện đại. Người cầm bút không thể không hoang mang trước sự lộn xộn, nhốn nháo của xã hội nói chung và văn học nói riêng.

Một tác phẩm văn học xuất sắc và đạt tới đỉnh cao sớm muộn sẽ được nhiều công chúng đón nhận nhiệt thành. Trước hết, tầm tư tưởng và tính triết học trong tác phẩm đó phải cao, nó đủ năng lượng để vượt ra biên giới để hòa nhập vào thế giới như những diễn giải cụ thể nhưng đầy tính nghệ thuật về nhân văn, về ý nghĩa tốt đẹp của cuộc sống.

Tác phẩm ấy phải ôm trùm những vấn đề rộng lớn, những thông điệp sâu sắc và hữu dụng với dân tộc và nhân loại trong một xã hội đang có không ít cái tốt đẹp nhưng cũng ẩn chứa rất nhiều hiểm họa của cái ác, cái suy thoái đạo đức nhân phẩm con người trong phạm vi toàn cầu. Những kiểu viết rả rích gặm nhấm cái bản năng một cách luẩn quẩn thái quá khó được đông đảo công chúng chấp nhận và làm sao vươn tới đỉnh cao được. May lắm, nó chỉ ào lên trong một thời điểm nào đó rồi sẽ mau chóng lịm ngất đi và chết. Mười lăm năm qua, không hiếm những "cái chết" văn chương như thế.

Tác phẩm đỉnh cao đương nhiên phải nhuần nhuyễn, mới mẻ về nghệ thuật. Tài năng vẫn là yếu tố quan trọng bậc nhất để tạo ra tác phẩm xuất sắc và tác phẩm đỉnh cao. Tài năng bao giờ cũng hiếm nên tác phẩm đỉnh cao không dễ dàng có được và cũng chẳng bao giờ nhiều.

Điều tôi muốn nói khi khép lại bài này là xã hội đừng bao giờ bỏ sót và luôn luôn biết tôn trọng, chăm chút tài năng, tạo môi trường tốt nhất cho các nhà văn sáng tạo.

Nguyễn Hữu Quý