Đất và người Quảng Bình
icon facebookFacebook icon phoneLiên hệ
icon categoryChuyên mục

Người mẹ tuyệt vời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

  • 14:13 | Thứ Sáu, 17/12/2021
  • icon gmail
  • icon facebook
  • icon youtube
(QBĐT) - Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp có một người mẹ tuyệt vời, là bà Nguyễn Thị Kiên, sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm. Cậu Giáp giống mẹ như đúc, từ vóc dáng đến gương mặt, đặc biệt đôi mắt thông minh trong sáng, vừa hồn nhiên, nhân hậu, hiền lành nhưng cương nghị.
 
Hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, cha bà Nguyễn Thị Kiên theo Văn thân chống Pháp, làm đến chức Đề đốc. Ông bị giặc Pháp bắt, tra tấn, đánh đập dã man, nhưng người sỹ phu yêu nước một mực không khai nửa lời. Cuối cùng, chúng phải thả. Ông là một người cương trực, phương phi, quắc thước. Có lần, bà dẫn cậu Giáp về thăm quê ngoại vùng sơn cước Mỹ Đức (nay là xã Sơn Thủy, Lệ Thủy). Ông ngoại rất mến Giáp, ôm cậu vào lòng.
 
Là một phụ nữ đảm đang, được sự giáo dục của gia đình nề nếp, từ ngày về làm dâu gia đình cụ Võ Quang Nguyên và bà Bùi Thị Gái (ông, bà nội của Đại tướng), thời gian đầu, ngoài việc chăm sóc con cái, bà Kiên vừa chạy chợ, vừa làm việc đồng áng, vất vả quanh năm kiếm tiền nuôi con ăn học. Về sau, hai chị gái của cậu Giáp (chị Điểm và chị Liên) lớn lên thay mẹ chèo đò đibuôn bán ở các chợ quê. Khi hai chị lập gia đình, Võ Nguyên Giáp và em là Võ Thuần Nho đi học xa nhà, bà sống với người con út là chị Võ Thị Lài, mọi công việc trong gia đình một mình bà xoay xở.
Gia đình Đại tướng (1931). Ảnh: Tư liệu.
Gia đình Đại tướng (1931). Ảnh: Tư liệu.
Gia đình ông bà Võ Quang Nghiêm (bố, mẹ của Đại tướng) thuộc nhà nho nghèo, phải đi vay nặng lãi các nhà giàu như nhà bá hộ khóa Uy, một Hoa kiều giàu có ở chợ Hôm, làng Tuy Lộc (Lộc Thủy, Lệ Thủy). Vay bằng tiền, nhưng khi trả bằng thóc cả vốn lẫn lãi, đúng vào vụ thu hoạch, lúa rớt giá.
 
Cậu Giáp đã nhiều lần theo mẹ chèo thuyền chở thóc đi trả nợ. Cậu nhớ nhất dưới trời nắng chang chang, mẹ đội thóc chạy lên chạy xuống bến, hết lượt này đến lượt khác, mồ hôi nhễ nhại, còn cậu bụng đói meo phải ngồi dưới thuyền trông coi thóc từ sáng đến trưa.
 
Một ấn tượng không bao giờ phai mờ trong ký ức của cậu là khi nghe mẹ kể việc chạy giặc Tây. Lúc bà còn nhỏ, mỗi lần Tây về làng càn quét, bà và người dì phải ngồi hai đầu quang thúng để mẹ quẩy đi tránh giặc. Tây đi khỏi làng lại quẩy hai chị em về. Bà nói thằng Tây ác lắm.
 
Đêm đêm, cậu còn được bà kể cho nghe bài vè “Thất thủ kinh đô”, rất phổ biến trong dân chúng thời bấy giờ. Chuyện kể rằng, khi Kinh đô Huế thất thủ, tướng quân Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi ra Quảng Bình, ngự trên thượng đạo, hạ chiếu Cần Vương, kêu gọi các sỹ phu yêu nước và dân chúng đứng lên chống giặc Pháp, trong đó có ông ngoại của Võ Nguyên Giáp. Cả nhà rất khâm phục tấm gương trung quân của tướng quân Tôn Thất Thuyết và ghét cay, ghét đắng tên gian thần bán nước hại dân Nguyễn Văn Tường. Bài vè đã gieo vào lòng cậu Giáp lòng yêu nước từ thuở ấu thơ và theo cậu đi suốt cuộc đời.
 
Sau ngày đất nước được độc lập, năm 1945, do bận trăm công nghìn việc, Võ Nguyên  Giáp chưa về thăm cha mẹ, làng xóm, quê  hương, thì giặc Pháp gây hấn. Cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu.Cũng như bao gia đình khác, bà Kiên cùng các con và cháu nội Võ Hồng Anh tản cư lên chiến khu Lệ Thủy. Trong lúc ông Nghiêm thu xếp một vài công việc nhà chưa kịp đi, thì giặc Pháp ập tới bắt ông đưa vào Huế giam ở nhà lao Thừa Phủ, chúng tra tấn dã man rồi thủ tiêu ông. Sau ngày đất nước thống nhất, 1975, con cháu cất công đi tìm mộ ông. Năm 1979, gia đình đưa hài cốt ông về an táng tại Nghĩa trang liệt sỹ huyện Lệ Thủy.
 
Trong khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn ác liệt, khoảng năm 1948, từ chiến khu Lệ Thủy, bà Kiên gửi một lá thư (bà đọc cho con gái đầu của Đại tướng là Võ Hồng Anh viết) cho Đại tướng và phu nhân. Bức thư có đoạn: “Mẹ mong con được mạnh khỏe luôn luôn thì mẹ mừng lắm. Còn mẹ và Anh cũng thường, nhưng mà thua lúc ở nhà nhiều lắm, nhưng chuyện nhà nhiều chuyện đắng cay, của tiền không kể, nhưng nhứt là không biết Thầy có còn hay không thì mẹ buồn lắm. Mẹ mong sao cho gặp được hai con cho đỡ buồn ”.
 
Bà là một bà mẹ Việt Nam suốt đời chịu thương chịu khó, hy sinh cho sự nghiệp của chồng con.Theo nguyện vọng của Đại tướng và phu nhân Đặng Bích Hà, năm 1952, bà ra Việt Bắc. Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, bà cùng gia đình về Hà Nội sống với con cháu cho đến khi qua đời, năm 1961.
 
 Mạnh Thường

tin liên quan

CỘN - Kỳ 2: Lang thang Cộn

(QBĐT) - Sau nhiều lần thêm, bớt, Cộn ngày nay đã định hình về mặt địa lý. Phía đông, nam giáp Nghĩa Ninh, mạn Bắc chung ranh giới với Bắc Nghĩa, Thuận Đức, phần phía Tây mới là chủ đề tranh cãi phức tạp: Tiếp nối "thành phố ngàn thu" Đá Bạc là vùng trung du đồi núi mênh mông.

Cộn

(QBĐT) - Trong tất cả các loại giấy tờ từ khi cất tiếng khóc chào đời đến lúc "giã biệt" của những ai ở mảnh đất đó đều ghi địa danh "Đồng Sơn". Nhưng ba, mạ, anh chị em, họ hàng chòm xóm và tất nhiên cả lũ bạn chăn trâu cắt cỏ của tôi đều gọi vùng quê ấy bằng cái tên rất đỗi thân thương: "Cộn"

Quê tôi, làng Đạm Thủy

(QBĐT) - Địa danh Đạm Thủy (Thạch Hóa, Tuyên Hóa) không biết có từ thuở nào. Hỏi chuyện người cao tuổi trong làng, được biết, từ xa xưa, có 4 dòng họ ngoài Bắc vào khai phá vùng đất này, đặt tên phường Đạm Thủy, thuộc làng Tiên Lệ (xã Quảng Tiên, TX. Ba Đồn ngày nay), sau khi tách khỏi làng Tiên Lệ (vào khoảng những năm 20 thế kỷ XX) lấy tên là làng Đạm Thủy; khoảng năm 1947 đổi tên thành thôn Đạm Thủy.