.

Đường 10-Dấu tích oai hùng

Thứ Ba, 01/08/2017, 09:23 [GMT+7]

(QBĐT) - Đường 10 được xuất phát từ km 0 ở ngã ba Áng Sơn, xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, với vị trí ở gần giới tuyến quân sự tạm thời, nó là con đường gần như ngắn nhất để chi viện cho tiền tuyến.

Đặc biệt, đường 10 có đến 2 cửa khẩu vượt Trường Sơn là đường 10 và đường 18 để qua đường 129 giáp bắc đường 9. Vì vậy, dù ra đời muộn hơn so với đường 12, 15 và đường 20 nhưng đường 10 cũng đã góp phần rất lớn trong việc vận chuyển được một khối lượng lớn hàng hóa, vũ khí phục vụ cho các chiến trường. Do đó, đường 10 là một trong những tuyến đường mà đế quốc Mỹ tập trung đánh phá dữ dội và quyết liệt nhất trong những năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Năm 1966, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bắt đầu bước vào giai đoạn ác liệt, để ngăn chặn mọi sự chi viện từ hậu phương miền Bắc cho chiến trường miền Nam và các chiến trường Lào, Căm-Pu-Chia, đế quốc Mỹ đã tập trung đánh phá dữ dội mà trọng điểm là tỉnh Quảng Bình bởi địa bàn này chính là cầu nối, là nút chiến lược của hệ thống giao thông trên khắp cả nước. Để đánh phá dải đất hẹp Quảng Bình, mỗi ngày địch xuất kích 330 lần chiếc máy bay, có ngày lên đến 440 lần chiếc. Riêng năm 1967, địch xuất kích gấp 6 lần so với năm 1966.

Với mức độ đánh phá ác liệt như vậy, các tuyến đường ngang vượt Trường Sơn 12 và 20 bị phong tỏa, ngăn chặn quyết liệt làm cho mọi hoạt động của ta bị ngưng trệ, ảnh hưởng đến việc chi viện chiến lược cho các chiến trường.

Nơi giao nhau giữa đường 10 và đường Hồ Chí Minh nhánh tây. Ảnh: T.Long
Nơi giao nhau giữa đường 10 và đường Hồ Chí Minh nhánh tây. Ảnh: T.Long

Trước tình hình đó, tháng 4-1967, Trung ương đã quyết định mở thêm cửa khẩu thứ 3 vượt Trường Sơn- đó là đường 10 (còn gọi là đường 20-7). Đường 10 xuất phát từ ngã ba Áng Sơn (Vạn Ninh, Quảng Ninh) chạy về phía tây, vượt đỉnh Trường Sơn, gặp đường 129 trên đất Lào.

Đường 10 là tuyến đường được mở qua địa hình cực kỳ phức tạp. Bộ Giao thông vận tải đã giao nhiệm vụ này cho Cục công trình I, trong đó giao cho đồng chí Đặng Ngọc Hoàn (Sau này là Bộ trưởng Bộ GTVT) tìm mở tuyến; đồng chí Lê Đức Ân, Cục trưởng Cục công trình I phụ trách phần kỹ thuật và phụ trách công trường.

Để mở tuyến đường này, Bộ GTVT đã huy động lực lượng thanh niên xung phong trên khắp cả nước như Hà Nội, Hải Phòng, Hà Nam, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An... lên đến hơn 6.000 người. Không thể kể hết mọi khó khăn, gian khổ, vất vả và thiếu thốn của các lực lượng tham gia thi công tuyến đường này. Họ phải chiến đấu, lao động trong điều kiện vất vả, thiếu thốn, giữa lúc cuộc chiến tranh đang vào giai đoạn ác liệt, địch đánh phá suốt ngày đêm mà mọi hoạt động của ta lại phải hết sức bí mật để giữ con đường- tuyến vận tải huyết mạch bảo đảm sự sống còn của cách mạng miền Nam.

Bước sang những năm 1967-1968, cường độ đánh phá của đế quốc Mỹ càng trở nên điên cuồng hơn, nhất là sau thất bại của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam, đế quốc Mỹ càng quyết tâm băm nát các tuyến hành lang vận chuyển của ta.

Bởi vậy, cho dù ta hết sức bí mật giấu kín nhưng kẻ thù vẫn phát hiện được và tổ chức bắn phá. Hơn nữa, đường 10 là tuyến đường chỉ cách bến phà Long Đại chừng 7km về phía nam.

Cùng với bến phà Gianh, bến phà Xuân Sơn, bến phà Long Đại là những tọa độ lửa ác liệt nhất của đế quốc Mỹ. Mục đích của chúng là ngăn chặn ngay từ đầu không cho hàng hóa vào được đến đường 10 để từ đó vượt khẩu chi viện ra tiền tuyến.

Vì vậy, chúng tập trung đánh phá bến phà Long Đại bao nhiêu thì tìm cách hủy diệt đường 10 bấy nhiêu. Đại bác 406 ly từ ngoài biển bắn vào, pháo 175 ly ở bờ nam giới tuyến bắn ra, biến nơi đây thành một “điểm lửa” trong “chảo lửa lớn” Quảng Bình. Có thể nói, trong suốt quá trình mở đường và chiến đấu chống kẻ thù, đường 10 là “đỉnh cao của cuộc đọ sức quyết liệt, đầy hy sinh, đối mặt với bom đạn tội ác của kẻ thù của Cục Công trình I”. Các trọng điểm vô cùng ác liệt trên tuyến đường 10 là km 0, km 5, ngã ba Dân chủ còn được ví là “ngã ba Âm phủ”.

Từ những ngày đầu, hơn 6.000 thanh niên xung phong trên khắp mọi miền đất nước đã tập trung về đây sống, chiến đấu, làm việc dưới lưới lửa đạn bom của quân thù trong điều kiện sống vô cùng cực khổ, thiếu thốn; để đến ngày hoàn thành con đường và trong suốt cuộc chiến, đã có 200 người ngã xuống và hơn 700 người phải mang thương tật suốt đời. Đúng là “Chưa đi chưa biết đường 10. Đi rồi mới biết sức người sức ta”.

Gian khổ ác liệt là vậy nhưng các lực lượng của ta vẫn không quản ngày đêm, vượt qua tất cả, bằng mọi giá quyết tâm mở đường, thông tuyến. Đến giữa năm 1968, hơn 40km đường đã được hoàn thành. Những năm sau này, đường 10 còn được nâng cấp, mở rộng thêm để đáp ứng yêu cầu của tiền tuyến.

Từ khi thông tuyến đưa vào sử dụng, đường 10 đã góp phần “chia lửa” cho các tuyến đường 12, 15, 20, không chỉ làm giảm mức độ đánh phá của địch mà còn tăng thêm khối lượng hàng hóa vận chuyển vào các chiến trường, “chỉ tính riêng trong năm 1971, khối lượng vận tải trên hướng đường 16 và 18 tăng trong tháng hai gấp 1,7 lần, tháng 3 gấp 2,1 lần, tháng tư gấp 3,3 lần so với tháng Giêng” (1).

Đặc biệt, trong chiến dịch Đường 9-Nam Lào 1971, đường 10 và đường 18 là trục chính trong việc vận chuyển vũ khí, khí tài hạng nặng vào chiến trường. “Bộ đội và binh khí kỹ thuật triển khai đội hình chiến đấu trên 3 trục đường số 10, 16 và 18. Đường số 10 dài 72km và đường 18 dài 60km dành cho binh khí kỹ thuật hạng nặng. Đường số 16 dài 140km dành cho bộ binh, vũ khí nhẹ và hậu cần” (2).

Trong chiến dịch Trị - Thiên 1972, đường 10 là nơi được Quân chủng Phòng không không quân đặt Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh tiền phương tại km5 (khu vực Rào Đá) để chỉ huy lưới lửa phòng không đánh trả máy bay địch, bảo vệ hậu phương.

Như vậy, cho dù ra đời muộn hơn so với các tuyến đường 12, 15, 20 nhưng đường 10 đã đóng vai trò quan trọng trong công tác vận tải chi viện cho tiền tuyến và đồng thời là một trong những tuyến đường giao thông trên đất Quảng Bình bị đế quốc Mỹ đánh phá quyết liệt nhất. Km 0 và tuyến đường 10- “ Nơi ghi lại ý chí, quyết tâm mở đường chi viện cho tiền tuyến miền Nam của 13.000 con người trong suốt 5 năm liền; và để có con đường này, 200 thanh niên trai trẻ đã ngã xuống, 700 người phải mang thương tật suốt đời”.(3)

Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi, đường 10- cùng với các tuyến vận tải chi viện khác trên địa bàn tỉnh, đóng vai trò cực kỳ quan trọng, góp phần đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi cuối cùng. Đế quốc Mỹ, cho dù đã huy động mọi sức lực, sử dụng hầu hết các phương tiện chiến tranh tối tân, hiện đại nhất, vẫn không phá hủy được những tuyến đường - đó là những tuyến đường được mở bằng cả sức lực, trí tuệ và quyết tâm của tuổi 20 “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.

Vì vậy, chúng không thể nào ngăn được sự chi viện sức người, sức của từ hậu phương miền Bắc cho miền Nam thân yêu, cho Trị - Thiên ruột thịt. Đế quốc Mỹ phải kinh hoàng, khiếp sợ trước những “Con rồng nghìn vây chặt đi mọc lại”, “Trận đồ bát quái xuyên rừng rậm” và cuối cùng phải thừa nhận: “Chúng ta có thể làm cho việc vận chuyển của họ bị chậm lại, bắt họ trả giá nhưng chắc chắn chúng ta không ngăn được họ”. (4)

Ngày nay, đường 10 đã được nâng cấp để phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; đặc biệt là góp phần trong việc phát triển du lịch của địa phương, con đường càng trở nên to đẹp và hiện đại. Tuy nhiên, trong những trang sử hào hùng của dân tộc cũng như trong tiềm thức của mỗi thế hệ, đường 10 là nơi ghi dấu về một thời hào hùng oanh liệt của quân và dân ta trên con đường đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, vì sự nghiệp thống nhất đất nước.

Hải Yến-Duy Đồng

-----------------------------------------------------------------------------
1- Lịch sử vận tải Quân đội Nhân dân Việt Nam 1945-1975, NXB QĐNDVN, tr 72.
2- Lịch sử công binh Việt Nam- NXB QĐND- HN 1991, tr 281.
3- Mặt trận giao thông vận tải trên địa bàn Quân khu 4 trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước- Bộ tư lệnh QK4, NXB QĐND- HN 201, tr 284.
4- Lịch sử Giao thông vận tải Quảng Bình 885-1999, NXB GTVT, tr 186.