.

Chuyện về nghĩa trang những oan hồn ở Sa Động

Thứ Sáu, 13/06/2014, 13:57 [GMT+7]

(QBĐT) - Qua khỏi cầu Nhật Lệ, ra Quảng trường biển rồi đi dọc bãi biển về phía nam chừng 1000m, du khách sẽ gặp “Âm hồn tự” mới phục dựng khá khang trang, bề thế, có tường rào bao quanh. Mới đây có đến hơn 120 mộ táng của những người lâm nạn chết trên sông, biển không tìm được địa chỉ, đang yên giấc ngàn thu trong lời ru bốn mùa của sóng biển. Đây là địa điểm tâm linh, di tích văn hóa và lịch sử của người dân địa phương mà năm 2011, UBND tỉnh Quảng Bình đã có quyết định công nhận là một trong những di tích văn hóa lịch sử cấp tỉnh.

 

“Âm hồn tự”  trong nghĩa trang.
“Âm hồn tự” trong nghĩa trang.

Nghĩa trang những oan hồn có từ lúc nào?

Trả lời câu hỏi ấy, ông Trương Xa (sinh 1946, ngụ ở xã Bảo Ninh), vị thủ từ được dân làng bầu từ sau ngày ông nghỉ hưu, băn khoăn: “Nào ai có bút tự ghi chép rành rọt lưu lại đâu để mà xác định. Các cụ ngày xưa nói, nghĩa trang này có từ sau ngày thành lập làng. 

Theo năm tháng, “hộ khẩu” nhập tịch nghĩa trang cứ đông dần thêm”. Theo lời vị thủ từ này, nếu chiếu vào lịch sử, thì nghĩa trang này hình thành khoảng thế kỷ XI, vì, anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt sau khi dẫn quân đi chinh phạt Chiêm Thành mở mang bờ cõi phía Nam Đại Việt, đã huy động dân từ Thanh Hóa, Nghệ An (bây giờ) vào đây thành lập làng, xã làm ăn, giữ đất.

Ở Việt Nam nói riêng, châu Á nói chung, phong tục hằn sâu bao đời là người chết thường phải lập linh sàng, phải có mộ chí để chỉ rõ danh tính, năm sinh, ngày tháng năm mất của người quá cố. Có như thế, linh hồn người quá cố mới siêu thoát, sẽ phù hộ độ trì cho người sống. Thế nhưng, hơn 120 mộ táng ở đây chỉ có một mộ chí chung vì họ là những oan hồn, lâm nạn mà chết trên sông nước. Những người chôn cất không tìm được địa chỉ của họ.

Xã Bảo Ninh (TP. Đồng Hới) ba bề, bốn bên là nước. Phía trước là con sông Nhật Lệ. Phía trên là cửa biển. Phía sau là biển cả. Mùa lũ, nước sông Nhật Lệ cuồn cuộn chảy. Người dân ở đây không thể quên trận lụt lịch sử kinh hoàng năm 1950, có thể xem là trận “đại hồng thủy” diễn ra ở vùng sông biển Nhật Lệ. Đò, thuyền có thể chèo giữa đường phố Đồng Hới. Trên sông Nhật Lệ trong dòng nước băng băng có biết bao cánh tay níu chặt mái nhà, tay kia chới với mong cầu cứu nhưng đều tuyệt vọng.

Những người chết trên sông nước này, tấp vào bờ. Người dân làng Sa Động ở cuối sông với lòng nhân ái bao la của mình đã chôn cất họ và sau đó, cất bốc hài cốt, đưa vào khu nghĩa trang này.

Là làng chài, người dân thôn Sa Động, xã Bảo Ninh chuyên sống bằng nghề đánh bắt cá trên biển. Biển hiền hòa, ưu đãi cho con người bao hải sản quý giá, nuôi dưỡng bao thế hệ con người sinh ra và lớn lên ở đây. Nhưng khi biển bất thần nổi cơn thịnh nộ thì nó cướp luôn mạng sống của bao người. Có biết bao người dân chài làng biển Bảo Ninh đã bỏ mình trên biển. Có người dạt vào bờ. Cũng có người trôi biệt tích. Và, người dân Sa Động bao thập niên qua đã vớt được nhiều sinh linh chết trên biển, tấp vào bãi biển làng mình. Nghĩa trang ven biển này là địa điểm an nghỉ của những người xấu số ấy.

Nhiều ngư dân Trung Quốc lâm nạn đang an nghỉ nơi đây?

Ông Trương Xa kể lại, năm 1979, sau một cơn bão biển, người làng Sa Động đã vớt được xác hai nạn nhân nam, theo ăn mặc và cấu trúc thuyền chài, người ta nghĩ đó là người Trung Quốc cùng con thuyền đánh cá của họ bị sóng biển nhồi lên bãi. Một người cao to khoảng 30-35 tuổi. Còn người kia gần 50. Sau khi đưa xác 2 nạn nhân này lên bờ, hội đồng pháp y của bệnh viện QB đã tiến hành mổ xẻ, khám nghiệm tử thi. Trong dạ dày của mỗi người, người ta thấy còn mấy hạt gạo. Có lẽ, họ đã quyết sống bằng những hạt gạo cuối cùng trong thuyền. Nhưng bão tố hung hãn đã không cho họ thực hiện ý nguyện.

Dẫu biết rằng những người dân Trung Quốc tử nạn này thường là đi đánh bắt trộm hải sản vùng biển ở Việt Nam, và lúc này, chiến tranh biên giới phía Bắc đang diễn ra quyết liệt, nhưng nghĩa tử là nghĩa tận, người dân làng Sa Động vẫn giang lòng tế độ của mình. Họ chôn cất, sau đó bốc hài cốt “nhập tịch” nghĩa trang này.

- Thế thì có bao nhiêu ngư dân Trung Quốc chết trên biển đang an nghỉ nơi đây ? Tôi hỏi.

Vị thủ từ chậm rãi trả lời: - Nghĩa trang này có từ lâu đời, qua nhiều thế hệ, chắc chắn ngoài hai nạn nhân vớt được năm 1979, trước đó còn có thể có nhiều ngư dân Trung Quốc đi đánh cá trộm ở Việt Nam, gặp bão chết trên biển đang nằm trong nghĩa trang này.

Ông Trương Xa còn cho biết, theo thông lệ ngày rằm mồng một ông thường thay mặt dân làng đến đây bày oản, thắp hương, đốt vàng, cúng bái hương hồn những người xấu số. Rồi hàng năm, dân làng Sa Động vào ngày rằm tháng 7, đến nghĩa trang này chạp mả, bày cỗ lễ, đốt hương đèn để điếu phúng những oan hồn và cầu mong họ phù hộ độ trì để được tai qua, nạn khỏi khi làm ăn trên sông, biển.

Vậy là người Trung Hoa và người Việt nằm lại ở đây đều được thọ hưởng lòng kính vọng của những người đang sống, qua nhiều thế hệ. Ông Trương Xa còn cho biết, “Âm hồn tự” và nghĩa trang đang ở vị trí này đã qua 3 lần di chuyển. Đầu tiên, “Âm hồn tự” tồn tại biệt lập với khu nghĩa trang, nằm ở phía nam, cách vị trí này chừng 500m. Lúc chiến tranh chống Mỹ leo thang phá hoại miền Bắc, “Âm hồn tự” còn là nơi đặt điện đài của trung đội nữ dân quân “15-7”. Sau ngày đất nước thống nhất, dân làng quyên góp xây dựng lại “Âm hồn tự” nhưng dời đến một vị trí cao hơn, cách vị trí cũ chừng 200m.

Đầu xuân Tân Mão (2011), sau khi được UBND tỉnh cấp giấy phép để xây dựng khu nghỉ dưỡng, lãnh đạo một Tổng cục thuộc Bộ Công an đã trích 50 triệu đồng từ quỹ xây dựng để giúp dân làng Sa Động di dời cải tạo, tu chỉnh “Âm hồn tự” và quy tập các phần mộ trong nghĩa trang về địa điểm mới.

Theo quyết định của lãnh đạo thôn, nhân thể phục dựng lần này “Âm hồn tự” mang tên mới là “Sa hải tự” (nghĩa là đền thờ của làng cát, sông nước). “Âm hồn tự” xưa và “Sa hải tự” nay đều chan chứa nghĩa cả nhân ái của người dân làng Sa Động xưa cũng như nay đối với những sinh linh không may đã bỏ mình trên sông nước.

Tháng 7-2011, theo thỉnh trình của Sở Văn hóa- Thể thao và Du lịch, UBND Quảng Bình đã cấp bằng công nhận “Âm hồn tự” và nghĩa trang các oan hồn này ở thôn Sa Động là một trong những di tích văn hóa lịch sử cấp tỉnh. Việc làm đó thể hiện tính nhân văn sâu sắc của chính quyền địa phương đối với những di sản văn hóa, lịch sử trên quê hương mình.

Hồ Ngọc Diệp