Nhà thơ Mỹ Bruce Weigl với sự thật Việt Nam

Cập nhật lúc 07:13, Thứ Hai, 15/04/2013 (GMT+7)

(QBĐT) - Nỗi ám ảnh khủng khiếp của chiến tranh Việt Nam, đó là điều có thật trên đất nước Mỹ. Nhưng cuộc chiến này cũng "cho" người lính những cái mà trước đó họ chưa có. Trong trường hợp của giáo sư nhà thơ Bruce Weigl thì không thể không thừa nhận điều trái nghịch đó. Cựu binh Mỹ này đã tham chiến ở Việt Nam, từng đặt dấu giày lên Quảng Trị, một vùng đất khốc liệt nhất của đất nước ta thời đó từ năm 1967 đến năm 1968.

Bruce Weigl viết: Chiến tranh đã từng tước đi của tôi rất nhiều, nhưng nó cũng cho tôi thơ ca, một người con Việt Nam và tình yêu đối với đất nước và con người Việt Nam. Ông không nói sai sự thật, ít nhất là với những gì ông đang có. Nước Mỹ nhìn nhận Bruce Weigl, tác giả của 12 tập thơ trong đó có phần quan trọng viết về chiến tranh Việt Nam là một hiện tượng thi ca.

Không riêng gì Bruce Weigl, nhiều cựu binh Mỹ tham chiến tại Việt Nam mang trong mình bóng tối hãi hùng của dĩ vãng. Càng ngày họ càng thấy rõ hơn sự vô nghĩa, vô lý của cuộc chiến tàn bạo do chính phủ Mỹ phát động đó. Ông so sánh và khái quát: Chiến tranh là con ong bằng sắt cháy đỏ, hút cạn hết mật cuộc đời (Tết đến). Đó chính là một hình dung, một liên tưởng đối lập như hòa bình với chiến tranh vậy. Khái quát đạt đến độ cô đọng hàm súc còn cụ thể thì cũng rất chi tiết. Nỗi ám ảnh về cô bé Việt Nam bị bom na pan đốt cháy trong chiến tranh thật dai dẳng: Cả bây giờ cả khi nhắm mắt, anh vẫn nhìn thấy bé gái chạy ra từ ngôi làng / bom na pan dính vào váy như thạch / đôi bàn tay với ra phía trước / nhưng không ai đón bé trong biển lửa trước mắt. Một khung cảnh chiến tranh hiện lên như những thước phim thời sự nóng bỏng, dù nó được lôi ra từ hồi ức khủng khiếp nhất của cuộc đời.

Và cũng khó hoài nghi về tâm trạng bất an triền miên, trĩu nặng trong phần đời còn lại của những cựu binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam: Cô bé bị đốt cháy sau võng mạc của anh / không có gì có thể thay đổi được điều đó / kể cả tình yêu dịu ngọt của em / cả không khí mát lành sau mưa / và cả đồng cỏ xanh như rừng đang trải trước mặt chúng ta. Nanh vuốt chiến tranh đã ngoạm vào cuộc đời trai trẻ của những người như ông và bi kịch thay họ cảm thấy cô độc lẻ loi hơn khi tiếng súng đã ngừng cho tận tới một ngày được phía bên kia tha thứ. Đây, không còn là thơ nữa mà chính xác là lời tự thú: Chiến tranh đã ăn thủng tôi / Tôi không thể chạm vào ai được nữa / Ngọn gió thổi xuyên qua tôi đến một nơi xanh thẳm / nơi họ vẫn ngã xuống trong biển máu (Kỷ niệm ngày được tha thứ). Sự tự thú mang tính lịch sử, phủ định lý lẽ bào chữa lấp liếm của kẻ gây chiến, bằng thơ, bằng những ngẫm suy rút ra từ máu: Đó là cuộc chiến tranh chống lại chính chúng ta (Cửa ngõ).

Nhà thơ Mỹ Bruce Weigl (Nguồn:Thể thao văn hóa)
Nhà thơ Mỹ Bruce Weigl (Nguồn:Thể thao văn hóa).

Sự mất mát to lớn, nỗi đau sâu thẳm của người dân trên xứ sở nhiệt đới này đã "giác ngộ" họ; những người như Bruce Weigl "nhận" từ chiến tranh bài học thực tiễn về lòng từ tâm lương thiện. Phải nói rằng Việt Nam đã thấm vào sâu, rất sâu trong tâm hồn của nhà thơ Mỹ này: Rồi Mẹ như cây mạ / sẵn sàng cho số phận nhô lên từ mảnh ruộng Mẹ đã được gieo / để lại được cấy xuống trong hàng hàng những người sống sót / Dậy thì khi lúa trổ đòng / bóng tối hậm hực muốn nhấn chìm vẻ đẹp / Mẹ vẫn rì rào xanh mướt xanh / tự do chảy qua những cánh đồng / Khi lúa chín, Mẹ gặt hái điều thiêng liêng nhất của đời mình bằng tiếng hát / bằng yêu thương sâu thẳm trong tim / bằng nước mắt, tiếng cười ngày làm Mẹ...

Trên vết thương chiến tranh đã nảy lên mầm tình yêu. Tình yêu bật dậy và dâng tràn bao la, gần gũi như nhịp tim hơi thở con người và thiêng liêng như một tân tôn giáo tinh khiết. Tình yêu ấy không phải bỗng nhiên đến, nó trải qua những trải nghiệm và giác ngộ nghiệt ngã để dần dần nghiêng hẳn về phía kẻ thù một thuở của mình. May mắn đã mỉm cười với ông, Bruce Weilg không ngã xuống vì viên đạn mũi chông của những người yêu nước Việt Nam để còn thời gian cho trái tim thi sĩ nhạy cảm thao thức cùng những vui buồn sáng tối của dân tộc Việt Nam. Hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời ông, theo tôi là ở đó. Tên tuổi ông không bị khắc vào bức tường chiến tranh Việt Nam ở Washington lẫn giữa 58.267 linh hồn lính trận mà đã được tô đậm trên những bài thơ làm rưng rưng nước Mỹ: những bài thơ ngợi ca kẻ thù mình. Ông đã cất lên những bài ca hòa bình mang khát vọng không của chỉ riêng mình và vì thế nó đủ sức lay động từ hai phía.

Sau chiến tranh những cựu binh Mỹ như Bruce Weigl trở lại Việt Nam, đất nước mà họ từng ném bom, bắn phá, mở nhiều cuộc hành quân tìm và diệt những người yêu nước. Cái họ được nhận không phải là hận thù mà là sự độ lượng bao dung. Một không khí yên bình bao trùm lên đất nước này và họ nhận được từ đó những xao xuyến thân quen, gần gũi: Nhưng tôi không cảm thấy xa lạ / Trong chính ngôi nhà đất nước tôi đã nỗ lực bỏ bom / để nó thành cát bụi (Cuộc đời cô lá cờ lụa đỏ). Tình cảm của Bruce Weigl dành cho Việt Nam rất thành thật. Thành thật yêu quý, thành thật hối hận. Không sự hối hận nào có thể trả lại sự sống cho những người vô tội bị giết chết / không giọt nước mắt nào có thể gột sạch quá khứ / không lời nào có thể trồng lại màu xanh cho một thành phố bị đốt cháy... (Cuộc đời cô lá cờ lụa đỏ). Ăn năn hối hận bao nhiêu thì tình yêu của họ dành cho Việt Nam càng đẹp đẽ bấy nhiêu.

Trong một ban mai dịu dàng bên hồ sen Bruce Weigl nhận ra vẻ đẹp và sức sống Việt Nam qua những hình ảnh bình dị: Sau một đêm không ngủ, tôi nghe tiếng chim dìu ban mai / về trên mặt hồ bằng tiếng hát / Trên những chiếc thuyền nan / Những người hái sen chèo ra xa giữa những bông hoa trắng muốt được ngắt ra / nhưng sẽ lại dâng lên sự sống (Cuộc đời cô lá cờ lụa đỏ).

Mối liên hệ quá khứ - hiện tại, chiến tranh - hòa bình là một phần của phép biện chứng duy vật trong cảm nhận của nhà thơ cựu chiến binh Mỹ này. Thâm nhập vào ngóc ngách cuộc sống phố phường, làng xã Việt Nam và từ sự hồn nhiên, đơn sơ của nó nhà thơ phát hiện ra những giá trị mới mà có lẽ trước đó ông chưa hề có. Những câu thơ ngợi ca cuộc sống hòa bình bay lên ngay trên mảnh đất từng bị đào xới vì bom đạn chiến tranh. Đèn dầu thắp sáng hàng quán /Nơi những người, vừa từng là kẻ thù của tôi/Ngồi trên vỉa hè ngợi ca đêm giản dị /Mùi phở thơm bay lên/Món ăn của ngày và của đêm... Và những đứa trẻ/bao vây chúng tôi bằng tiếng cười đen và trắng...(Duy vật biện chứng).

Đấy là bộ mặt của cuộc sống đầy tính thiện, nó vượt lên quá nhiều những đau thương mất mát cơ cực và đã phủ che bấy nhiêu trăn trở lo toan thường nhật không dễ gì thấy hết. Cốt lõi xuyên suốt của tinh thần ấy, phẩm chất ấy là gì? đâu là của hôm qua những trầm tích lịch sử văn hóa để lại? đâu là của hôm nay sự chấp nhận và bứt phá để tồn tại và phát triển? đâu là của ngày mai những dự cảm, dự định tươi sáng? Có những câu hỏi / mà những người có tất cả / hỏi những người không có gì cả / và câu trả lời họ không bao giờ hiểu được (Duy vật biện chứng). Như vậy, thật thú vị, vẫn còn đó những bí mật Việt Nam chưa được hé lộ. Để có một tình yêu trọn vẹn với đất nước này, người Mỹ tiếp tục tìm hiểu khám phá con người Việt Nam.

Chiến tranh đã "cho" Bruce Weigl một người con Việt Nam. Đó là Nguyễn Thị Hạnh Weigl, con nuôi của ông. Những câu thơ sau đây có thể làm ta rơi nước mắt bởi tình cảm cha con, tình cảm đối với Việt Nam rất tinh tế: Giữa lý thuyết hai sự thật, mùi thơm của súp ứa đầy mũi tôi/ Món con gái tôi nấu khi nó nhớ về làng của nó trong mưa/ Món súp của cơm hôm qua, của cà chua, của thịt bò dính mỡ thái thật mỏng mà sự nghèo khổ đã dạy nó thái... (Lý thuyết hai sự thật).

Từ chiến tranh đến hòa bình, từ hận thù đến yêu thương là những trải nghiệm của một con người, một đời người, một số phận. Cuộc đời của một cựu binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam găm níu vào những bài thơ chắt ra từ máu và nước mắt, từ bi ai và hy vọng... tựa như một cuốn tự truyện nhiều cung bậc, một tiểu thuyết thơ của Bruce Weigl.

                                                                              Nguyễn Hữu Quý
 

,
.
.
.