.

Công tác kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh: Những yêu cầu đặt ra

Thứ Hai, 05/12/2016, 08:08 [GMT+7]

(QBĐT) - Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh là cấp uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ, lãnh đạo các tổ chức cơ sở đảng thực hiện nhiệm vụ chính trị; xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong khối trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng cơ quan, đơn vị và đoàn thể vững mạnh. Qua quá trình chuyển giao, tách nhập, thành lập mới, đến nay toàn Đảng bộ Khối có 71 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 38 đảng bộ cơ sở với 295 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở và 1 đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng ủy cơ sở và 33 chi bộ cơ sở trực thuộc Đảng ủy Khối; tổng số đảng viên tính đến 31-11-2016 là 3.956 đảng viên; có 38 UBKT đảng ủy cơ sở 124 ủy viên UBKT đảng ủy cơ sở.

Quán triệt quan điểm của Đảng xem công tác kiểm tra, giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo của Ðảng, là bộ phận cấu thành trong toàn bộ công tác xây dựng Ðảng, là trách nhiệm của các tổ chức đảng và đảng viên, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối, các cấp ủy đảng và UBKT hai cấp trong toàn Đảng bộ Khối đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng trong toàn đảng bộ.

Để lãnh đạo và triển khai thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, bám sát chương trình công tác kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ 2015 - 2020 và kế hoạch kiểm tra, giám sát hàng năm, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy, UBKT 2 cấp trong Đảng bộ Khối triển khai toàn diện công tác kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng.

Trong năm 2016 (tính đến 31-11-2016), cấp ủy hai cấp đã tiến hành kiểm tra 74 tổ chức đảng, 49 đảng viên; giám sát 43 tổ chức đảng và 34 đảng viên. UBKT 2 cấp trong Đảng bộ Khối vừa làm tốt công tác tham mưu giúp cấp ủy từng cấp xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát toàn khóa, kế hoạch kiểm tra, giám sát năm vừa tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát theo Điều 32, Điều lệ Đảng.

Trong năm qua, UBKT hai cấp đã kiểm tra 94 tổ chức đảng cấp dưới, giám sát 44 tổ chức đảng và 21 đảng viên; trong đó, UBKT Đảng ủy Khối đã kiểm tra 9 tổ chức đảng, giám sát 3 tổ chức đảng và 03 đảng viên. Cấp ủy, chi bộ và UBKT đảng ủy cơ sở đã tổ chức thực hiện cơ bản đạt được kế hoạch kiểm tra, giám sát đề ra trong năm.

Cùng với giám sát theo chuyên đề, quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng "giám sát phải mở rộng" và thực hiện Quy chế giám sát trong Đảng ban hành kèm theo Quyết định số 68-QĐ/TW ngày 21-3-2012 của Bộ Chính trị, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh chủ trương phải tăng cường thực hiện nhiệm vụ giám sát thường xuyên của cấp ủy theo Điều 30, Điều lệ Đảng đối với cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng trực thuộc.

Trên cơ sở đó, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã xây dựng và ban hành quyết định về phân công giám sát thường xuyên của các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ, Ủy viên BCH Đảng bộ Khối giám sát thường xuyên đối với các TCCS đảng và đảng viên...; phân công phụ trách theo dõi các khối để chỉ đạo hoạt động; kịp thời nắm bắt tình hình hoạt động để có sự lãnh đạo, chỉ đạo.

Đồng thời, hàng tháng, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã tổ chức các đoàn công tác do đồng chí Bí thư hoặc Phó Bí thư Đảng ủy Khối làm trưởng đoàn, đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ làm trưởng khối và đại diện các ban, Văn phòng Đảng ủy Khối làm thành viên thực hiện việc giám sát thường xuyên. Các cấp ủy, UBKT đảng ủy cơ sở cũng tăng cường công tác giám sát thường xuyên đối với tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên theo quy định của Điều lệ Đảng.

Ban Thường vụ Đảng ủy Khối triển khai, quán triệt Quy định số 30-QĐ/TW về thi hành chương VII, chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng  cho cán bộ chủ chốt các TCCS đảng.
Ban Thường vụ Đảng ủy Khối triển khai, quán triệt Quy định số 30-QĐ/TW về thi hành chương VII, chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng cho cán bộ chủ chốt các TCCS đảng.

Nội dung giám sát đã tập trung vào các lĩnh vực quan trọng, bám sát tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị và việc thực hiện nhiệm vụ của đảng viên. Qua giám sát, đã giúp cấp ủy đánh giá đúng tình hình, phát hiện những vấn đề mới nảy sinh, những tồn tại, hạn chế trong tổ chức thực hiện; từ đó, có biện pháp chỉ đạo, chấn chỉnh kịp thời.

Thông qua công tác giám sát, các tổ chức đảng đánh giá đúng hoạt động của cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, kịp thời điều chỉnh đối tượng lãnh đạo, quản lý, phát huy ưu điểm, phát hiện được thiếu sót, khuyết điểm để kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh, khắc phục, cảnh báo, ngăn ngừa vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên khi còn manh nha, nhằm góp phần bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, giữ gìn sự trong sạch, vững mạnh, ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực trong Đảng.

Tuy nhiên, thực tế công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng trong toàn Đảng bộ Khối vẫn còn nhiều vấn đề bất cập: Một số cấp ủy, UBKT đảng ủy cơ sở chưa nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, còn xem đó là công việc của UBKT, nên thiếu quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện.

Việc thực hiện quy trình các cuộc kiểm tra, giám sát chưa bảo đảm theo quy định của Trung ương, còn thiếu các bước theo quy định hoặc chưa phân định rõ giữa quy trình của cuộc kiểm tra và cuộc giám sát. Các chi bộ thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát chưa bảo đảm theo quy định, nhiều chi bộ do xác định chưa đúng chức năng nhiệm vụ nên trong xây dựng kế hoạch và tiến hành kiểm tra không chỉ kiểm tra, giám sát đảng viên mà còn kiểm tra việc thu, nộp, quản lý và sử dụng đảng phí đối với các tổ đảng; kiểm tra việc thực hiện quy chế làm việc của chi bô...

Một số đảng ủy, chi bộ xác định chưa đúng thẩm quyền thi hành kỷ luật nên nhiều nội dung thi hành kỷ luật thuộc thẩm quyền của chi bộ đều do đảng ủy thực hiện. Việc nắm tình hình tổ chức đảng và đảng viên để phát hiện những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, vi phạm nguyên tắc sinh hoạt Đảng, mất đoàn kết nội bộ, vi phạm phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ để kiểm tra dấu hiệu vi phạm (nếu có) còn hạn chế.

Để tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng bộ Khối, thời gian tới, các cấp ủy, UBKT đảng ủy cơ sở cần xác định đúng tầm quan trọng của công tác, kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng đối với việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị.

Trên cơ sở đó để có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng nhằm ngăn ngừa những biểu hiện vi phạm cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những biểu hiện sa sút về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên để ngăn chặn và xử lý kịp thời, nâng cao phẩm chất, năng lực, đạo đức, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ nhằm góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị.

Thứ hai, các cấp ủy cần xác định đúng nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của cấp ủy theo Điều 30, Điều lệ Đảng để xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát hàng năm bảo đảm có trọng tâm, trọng điểm, đúng nội dung, đối tượng và lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả. Vì trên thực tế, nhiều cấp ủy cơ sở hầu như “khoán trắng” nhiệm vụ kiểm tra, giám sát cho UBKT. 

Thứ ba, UBKT các đảng ủy cơ sở cần nắm rõ chức năng, nhiệm vụ của UBKT theo quy định của Điều 32, Điều lệ Đảng để tham mưu cho cấp ủy thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đồng thời triển khai thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của UBKT bảo đảm theo quy định. Trong xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát hàng năm cần bám sát 6 nội dung của UBKT theo quy định của Điều 32, Điều lệ Đảng để xác định đúng nội dung, đối tượng kiểm tra, giám sát, tránh tình trạng “lấn sân” của cấp ủy.

Thứ tư, Điều lệ Đảng quy định, chi bộ (kể cả chi bộ cơ sở, chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở và chi bộ trong đảng bộ bộ phận) có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đảng viên, trong đó tập trung kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên, việc thực hiện nghị quyết của chi bộ, nhiệm vụ do chi bộ phân công. Vì vậy, các chi bộ cần xác định kiểm tra, giám sát đảng viên là nhiệm vụ quan trọng của chi bộ để xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát hàng năm đối với đảng viên của chi bộ.

Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên thông qua sinh hoạt chi bộ định kỳ; qua kiểm tra, phân tích chất lượng đảng viên cuối năm; qua nhận xét, đánh giá, phản ánh của tổ chức đoàn thể và nhân dân đối với tổ chức đảng và đảng viên; qua nghiên cứu, khảo sát nắm tình hình theo yêu cầu của cấp ủy; qua sơ kết, tổng kết công tác và thông báo của tổ chức đảng có thẩm quyền cấp trên để đánh giá đúng mặt mạnh, mặt yếu của đảng viên, kịp thời động viên, phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, chủ động phòng ngừa đảng viên vi phạm.

Thứ năm, thực hiện  bảo đảm thầm quyền thi của đảng ủy và chi bộ trong thi hành kỷ luật đảng viên để tăng thẩm quyền, bảo đảm chức năng của chi bộ theo quy định của Điều lệ Đảng.

Thứ sáu, cần thực hiện đầy đủ, đúng quy trình của các cuộc kiểm tra, giám sát. Đồng thời, phân định rõ giữa quy trình của cuộc kiểm tra là xem xét kỹ đến chi tiết để xác định mức độ đúng, sai; là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét trên cơ sở căn cứ vào những tiêu chí, văn bản đang có giá trị hiện hành so với thực tế của đối tượng được kiểm tra (nghĩa là có thẩm tra, xác minh).

Và quy trình của một cuộc giám sát là theo dõi, xem xét, đánh giá, góp phần cảnh báo vi phạm; chủ động phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; kịp thời phát hiện tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm (nếu có) để tiến hành kiểm tra, xem xét, kết luận và xử lý nghiêm minh theo các quy định của Đảng (không có thẩm tra, xác minh).

Nguyễn Thị Nga
(Phó Chủ nhiệm UBKT Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh)